canh giữ đàn cừu. Họ lập nên gia đình, bộ tộc. Một hôm, một trong những bộ
tộc lang thang của họ bị những thợ săn dữ tợn tấn công. Ngay lập tức, các
thanh niên trong bộ tộc bèn đem những xe vận tải xếp thành một hàng lũy
vây quanh, trong đó họ cất giấu đàn bà, trẻ con, cụ già, bò thiến, của báu và
từ trên những cỗ xe đó, họ ném những hòn đá giết người vào lũ xâm lược.
Như vậy đã được sáng lập dân xã
đầu tiên. Bẩm sinh khốn khổ, và bị luật
pháp của Jéhovah buộc phải giết người, con người tôi luyện trái tim mình
trong những trận chiến đấu và nhờ chiến tranh rèn đúc nên những đức năng
cao cả nhất của mình. Nó xác định bằng máu tình yêu tổ quốc, nó sẽ (nếu con
người hoàn thành đến đầu đến đũa vận mệnh của mình) phải gồm thâu toàn
thể trái đất trong hòa bình. Một vị trong bọn chúng tôi, Dédale
, đem lại cho
nó búa rìu, dây rọi, buồm gió. Như vậy chúng tôi làm cho cuộc sống của con
người trần gian trở nên đỡ gay go hơn, đỡ khó khăn hơn. Họ dựng xây trên
mặt nước hồ những xóm làng bằng lau sậy trong đó họ được nếm trải một sự
yên tĩnh trầm tư mà các cư dân khác của trái đất không hề được biết, và khi
họ đã biết làm nguôi cơn đói, không đến nỗi cố gắng vất vả quá, chúng tôi
thổi vào trong ngực họ tình yêu cái đẹp.
Dân xã (cité): thường vẫn dịch cité là đô thành, đô thị, v.v… không được đúng lắm. Chúng tôi dịch lại
theo đúng nội dung nguyên ý là dân xã, vì là nhân dân tụ hội thành xã hội có tổ chức, mỗi thành viên
gọi là xã dân (citoyen). Về sau, tổ chức cao hơn, chặt chẽ hơn, mới thành những đô thị hoặc đô thành.
Dédale: vốn là tên một kiến trúc sư Hy Lạp, đã xây nên cung mê hồn (labyrinthe) ở Crète, có nhiều
phòng bố trí rắc rối, khó tìm được lối ra vào - đây chỉ là tên mượn.
“Họ dựng lên những kim tự tháp, những cột tháp
, những tháp chòi,
những bức tượng khổng lồ cười mỉm, cứng đờ và dữ dội, và những biểu trưng
sinh thực. Sau khi đã tập hiểu biết chúng tôi, hoặc ít ra là đoán ý chúng tôi,