tình yêu của bốn người phụ nữ, trong đó có hai người mẹ và hai dì Tu, Mi.
Bay giờ hai người phụ nữ độc thân (chứ không thể gọi là đàn bà) ấy đã
ngoài 70 tuổi. Suốt bảy thập niên, với biết bao biến động của xã hội, họ vẫn
sống bên nhau, chia xẻ với nhau bao vui buồn, cam go, li tán, đoàn tụ ở căn
nhà số 1 hẻm 56 phố Khuỳnh Khương Ninh này.
Đến thăm hai dì, tôi kinh ngạc khám phá ra một mảng khuất lấp của cuộc
đời, những hy sinh lặng lẽ và vô danh mà nhiều người vô tình không thể
nhận ra. Càng ngạc nhiên hơn khi tôi thấy căn nhà nhỏ hai tầng của các dì
như một bảo tàng của tuổi thiếu nữ. Có đến vài ba chiếc tủ kính lớn đầy ắp
những bộ sưu tập: hàng trăm búp bê xinh xắn đủ kích cỡ, các quốc tịch;
hàng ngàn huy hiệu, kỷ niệm chương, đồng hồ, tiền cổ, vòng, xuyến, nhẫn,
ly, cốc, đồ nữ trang… Mỗi kỷ vật đều mang dấu ấn một vùng đất, một
chuyến đi. Dường như chúng được mua, được sưu tầm với tấm lòng và tình
yêu của người mẹ đem về cho các con chơi chứ không hẳn là dụng ý của
người sưu tập, người chơi đồ cổ.
- Sống trong không gian của những kỷ vật này, chúng tôi luôn có một thế
giới hồi ức - Dì Tu nói - Cứ mỗi lần đi đâu xa, chúng tôi lại nhớ cồn cào
căn nhà nhỏ thân thương này. Ở đây có mẹ tôi và các cháu… Có lẽ lần dì
Mi bị kẹt ở Đức một năm, nhưng nhất quyết đòi trở về cũng là vì không thể
xa được ngôi nhà này…
Đó là khoảng thời gian cuối năm 1974, bà Bùi Thị Hương làm việc tại
Đại sứ quán nguỵ quyền ở Cộng hoà Liên bang Đức. Sau giải phóng 30-4-
1975, hầu hết người Việt Nam làm việc trong toà đại sứ đều ở lại châu Âu
hoặc sang Mỹ cư trú chính trị. Riêng bà Bùi Thị Hương gửi đơn đi các nơi
đòi trở về nước, bất chấp những lời đe doạ: “Về nước sẽ bị cộng sản tắm
máu, sẽ bị hành quyết”… Gần một năm sau, nhờ sự can thiệp của KTS
Huỳnh Tấn Phát, bà Hương mới được trở về Sài Gòn.
- Hôm ra đón dì Mi ở sân bay Tân Sơn Nhất, chúng tôi thấy “nó” mặc bộ
đồ đen kỳ cục quá. Sau này Mi thú nhận rằng, “Nó” mặc đại tang, sẵn sàng
chịu “hành quyết” miễn là được trở về Sài Gòn, được gặp chị và các
cháu…