Có rất nhiều dữ liệu cần được phân tích, một số chuyên gia phân tích còn
quay lại nghiên cứu tình hình từ tận đầu thế kỷ XIX. Điều thú vị ở đây là,
theo tôi biết thì người ta không tìm thấy gì nhiều ngoại trừ một vài lý thuyết
chung chung.
Các học thuyết cũ có thể đã từng đúng
Một lý thuyết phổ biến trong vài năm trước cho rằng các nhà đầu tư nên mua
và giữ các khoản đầu tư cổ phiếu của họ trong thời gian lâu dài. Họ không
nên cố gắng tỏ ra hiểu biết hơn thị trường chứng khoán. Ý tưởng này đã trở
thành câu thần chú sau khi thị trường có bước phục hồi tuyệt vời sau vụ đổ
vỡ thị trường cổ phiếu năm 1987. Vụ đổ vỡ đó giờ đây chỉ được xem như
một biến động nho nhỏ trong đợt bùng nổ thị trường của những năm 1980,
1990. Sự phục hồi đó chính là minh chúng cho khả năng “mau phục hồi” dài
hạn của thị trường.
Có thêm một lý thuyết liên quan nói rằng thị trường Cổ phiếu luôn luôn đem
lại lợi nhuận cao hơn so với lãi suất trái phiếu trong dài hạn, vì các nhà đầu
tư cổ phiếu được đền bù nhiều hơn cho độ rủi ro cao xuất phát từ việc thị
trường không ổn định. Hiện giờ các lý thuyết kiểu này có lẽ đã mờ nhạt đi
phần nào, sau khi các nhà đầu tư toàn cầu trải qua năm năm liền thị trường
xuống giả kể từ năm 2000. Ở Mỹ, năm 2005 các chỉ số chứng khoán lớn
đóng cửa ở mức thấp hơn so với mức năm năm trước đó. Năm năm là một
khoảng thời gian dài, ngay cả đối với những nhà đầu tư kiên nhẫn. Tôi cũng
cho rằng vì các lý thuyết về mua bán được công nhận rộng rãi nên nó mới có
ảnh hưởng đẩy giá lên cao hơn, làm tăng phí gia nhập thị trường đối với các
nhà đầu tư mới khiến họ không còn quan tâm đến thị trường nữa - đây chính
là một kiểu dự đoán trước là mình sẽ thất bại.
Các lý thuyết khác, căn cứ vào các tỉ suất như tỷ suất giá trên doanh thu, đã
rất thành công trong việc báo hiệu đợt đổ vỡ công nghệ vài năm về trước.
Tuy nhiên, tôi nghĩ rất nhiều về các lý thuyết này, tôi đã quá cẩn trọng và đã
bỏ lỡ rất nhiều thời điểm thị trường phát triển huy hoàng trong vòng năm
năm trước đó. Điều này chắc hẳn đã làm cho nhiều nhà đầu tư mất rất nhiều