tích các làng mạc cũ. Một nhà thám hiểm trước đây qua vùng này đã có
nhận xét như thế. Nhìn những hàng rào cao làm bằng các cây giáo nhọn
còn sót lại và một vài cây vả cổ thụ, “cây vả thần” đứng trơ trọi giữa vùng
đất, người ta biết ngay là xưa kia đã có một làng nhỏ ở đây. Theo cổ tục,
sau cái chết của người đầu mục, dân làng phải rời bỏ nơi bất an nàn, kéo
nhau đến một nơi khác lập nghiệp.
Ngoài dân du mục này, đây có lẽ còn có những bộ lạc sống ở hang
dưới đất như người ta tìm thấy ở nhiều chỗ tại Châu Phi. Những người này
chỉ lên mặt đất ban đêm để kiếm mồi và ăn cả thịt sống.
Chiều ngày 10 tháng bảy, đoàn Đíchsơn một phen hết hồn. Xa xa,
đằng trước mặt về bờ bên phải, có một làng ở trên mặt nước. Khúc sông
này phình ra thành một vũng nhỏ, bờ bên trái đá mọc lởm chởm, bờ bên
phải là những nhà sàn trên mặt nước, ước chừng ba mươi nóc. Thuyền phải
theo dòng nước chui qua dưới lớp nhà sàn. Làng này có người ở. Ánh lửa
thấp thoáng dưới những mái tranh.
Đíchsơn ngồi ở mũi thuyền, vừa lựa thế đi vừa nói nhỏ báo cho
Ecquyn lái để khỏi chạm vào chân những cây cột mọt của các nhà sàn.
Đêm sáng, trong thuyền nhìn ra khá rõ bên ngoài nhưng bên ngoài cũng
nhìn khá rõ trong thuyền. Đây là giây phút nguy kịch nhất. Có hai người
ngồi trên một thân cây gần sát nước, đang nói chuyện với nhau. thuyền phải
trôi qua dưới chân họ. Chỉ còn vài chục thước nữa thì tới chỗ họ rồi.
Đíchsơn trông thấy người nọ trỏ cho người kia biết “đống cỏ” sắp trôi đến
làm đứt tấm lưới bằng dây leo mà họ đang chăng bắt cá. Rồi hai người vội
vàng kéo lưới lên và hò người ra giúp đỡ.
Năm, sáu người da đen chạy và đi trên những cây sà ngang nối giữa
hai dãy nhà sàn. Họ càu nhàu nguyền rủa ầm ĩ. Trong thuyền, im lặng,
không một tiếng động.