130
M
ột nhóm các bác sĩ Thụy Sĩ dường như đồng tình với ý kiến của bác sĩ Scheibner: “Chúng
ta đã mất đi sự khôn ngoan và hiểu biết (mà đã từng có phổ biến trong dân gian) trong việc
nhìn nh
ận các căn bệnh thời thơ ấu. Thay vì tăng cường khả năng đề kháng của cơ thể, các
cơn sốt và các triệu chứng không ngừng bị đàn áp. Việc này không phải là không để lại hậu
qu
ả gì” [38].
Có l
ẽ kết luận đáng ngạc nhiên nhất của bác sĩ Scheibner là: “Một nghiên cứu sâu rộng về các
tài li
ệu y tế cho thấy rằng không có bất kỳ bằng chứng nào về khả năng của vắc – xin trong
vi
ệc ngăn ngừa bất kỳ bệnh nào. Ngược lại, có rất nhiều bằng chứng (trực tiếp và gián tiếp)
r
ằng chúng gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng” [39].
Bác sĩ Scheibner sau này còn đưa ra một tuyên bố mạnh mẽ hơn như một kết quả không chỉ
c
ủa việc nghiền ngẫm các tài liệu y tế về tiêm chủng mà còn là của nghiên cứu của cá nhân
cô v
ề các mẫu hơi thở của trẻ trước, trong và sau khi trải qua căng thẳng. Sử dụng một thiết
b
ị theo dõi hơi thở được phát triển bởi kỹ sư điện tử y sinh Leif Karlsson, cô và Karlsson đã
phát hi
ện ra rằng khi các em bé bị căng thẳng, dù là do “bị chấn thương” (tiêm chủng), nhổ
răng, hoặc trong thời gian ủ bệnh – hơi thở của các em thay đổi theo các mẫu do căng thẳng
gây ra hay ki
ểu thở nhẹ thường thấy ở những thời điểm then chốt trong khi ngủ. Họ nhận thấy
r
ằng sau khi tiêm DPT mô hình thở của trẻ thể hiện rất nhiều căng thẳng, mà tiếp diễn trong
m
ột khoảng thời gian ít nhất là từ 45 đến 60 ngày sau. Mô hình thở do stress này được phản
ánh ch
ớp nhoáng, đôi khi kéo dài, xảy ra trong một số ngày nhất định sau khi tiêm. Mặc dù
biên độ của sự xuất hiện chớp nhoáng là khác nhau, đã có một sự thống nhất đáng chú ý của
các ngày mà chúng xu
ất hiện.
Vào th
ời điểm cô và Karlsson thực hiện nghiên cứu này, bác sĩ Scheibner đã không để ý
nh
ững tranh cãi xung quanh việc tiêm chủng; nhưng sau được nghe từ các bậc cha mẹ, những
người đã theo dõi em bé của họ, mà có một em bé đã chết vì SIDS (gọi là “chết tại cũi” ở Úc)
sau khi tiêm DPT, h
ọ nhận ra rằng có một số lượng lớn các trường hợp tử vong vì SIDS sau
khi tiêm DPT. T
ừ đó cô bắt đầu việc “truy tìm sự thật” thông qua hàng ngàn các trang tạp chí
khoa h
ọc và các ấn phẩm khác về tính hiệu quả và sự nguy hiểm của vắc – xin. Cô kết luận:
Vi
ệc chủng ngừa, bao gồm cả những thực hành trên trẻ sơ sinh, không những không
ngăn chặn bất cứ bệnh truyền nhiễm nào mà còn gây ra nhiều đau khổ và nhiều tử
vong hơn bất kỳ hoạt động y tế nào khác của con người trong toàn bộ lịch sử. Việc
d
ọn dẹp các thảm họa gây ra bởi tiêm chủng sẽ mất hàng thập kỷ. Tất cả các loại tiêm
ch
ủng nên được chấm dứt ngay lập tức và tất cả các nạn nhân của các tác dụng phụ
c
ủa nó nên được đền bù thỏa đáng [40].