đã rời khỏi chiếc tàu trong lúc đêm tối, đi trên một chiếc xuồng con, không
cho biết là đi đâu và cũng không cho biết bao giờ thì trở về. Hắn chỉ dặn dò
thuyền phó của hắn, Bácxempuy, là phải hết sức để mắt đến Gunxbôrô
nhưng phải giấu mình thật kín trong quần đảo, chờ hắn về sẽ có lệnh mới.
Phải chăng hắn đi thám sát để thử xem lần này nên tấn công vào thuộc địa
Gunxbôrô bằng mưu chước gì đây ? Nhưng chúng tôi đã nhanh tay hơn
hắn. Từ tinh mơ, chiếc thuyền Sê bếch của ngài đờ Perắc đa phát hiện được
con tàu Trái tim Đức mẹ
Maria đang bỏ neo. Thế là truy kích, ghé sát tấn công, nhảy sang đánh giáp
lá cà. Thế đấy! Chúng tôi, những người Gunxbôrô, chúng tôi đã thắng! Còn
Râu vàng, dù hắn đi đâu, ở đâu, cũng là hết đời rồi, tôi nghĩ như vậy, cũng
là hết cái đời làm mưa làm gió trên các biển cả và đại dương!
- Tốt! Tôi cám ơn ông.
Angiêlic trở về hải cảng. Mặt trời lặn nhanh xuống đường chân trời. Bụi và
khói nhuốm sắc vàng óng ánh và màu lưu huỳnh. Cái nắng ngột ngạt mặc
dù có gió, cuối cùng rồi cũng tắt ngấm.
Nghe thấy tiếng đại bác, người Anh điêng từ trong rừng chạy bổ ra, đem
theo cả lông thusd để đổi cho các con tàu và cả những con thú mà món lãi
không thể coi thường vì sức ngốn của bao nhiêu con người đang đổ về đây.
Thủy thủ người Anh, người Pháp, cướp biển, và ngay cả những người bị
cầm tù còn đủ sức lết đi được, mọi người lao đi đổi chác đông nghịt trên bờ,
vì sức hút mạnh mẽ của việc đổi hàng lông thú và vì hám món lợi người ta
có thể kiếm được. Người ta đổi chác bất cứ cái gì, những chiếc mũ chụp,
thuốc lá, rượu mạnh, vòng đeo tai cho đến cả những chiếc thìa bằng gỗ và
bằng nhôm, với con dao là những dụng cụ nấu nướng quý giá nhất đối với
cuộc sống của người thủy thủ.
Ngay cả những người tù cũng vậy, qua các khe hở của vách nhà tù bằng gỗ
ván, họ ra sức gọi những người Anh điêng đến gần và đưa cho xem các thứ
hàng linh tinh của họ.
Cũng chính trong dịp này, Angiêlic đã tìm lại được một người quen cũ từ
hồi ở mũi Maqua.