trồng trọt đã quen sống ở đây với vợ hay vợ lẽ người da đỏ và một lũ con
lai. Tất cả khoảng một chục nóc nhà, sáu mươi đến bảy mươi nhân mạng.
Tàu Lơ Rôsơle thả neo dưới chân cái cơ ngơi có vẻ đẹp hoang dã này.
Một con đường dốc hai bên trồng đậu tía dẫn lên ngôi nhà xây cất vững trãi
bằng gỗ
và đá.
Đậu tía sum suê với những chùm hoa khổng lồ màu hồng, màu trắng, màu
thanh thiên khiến cho cả một vùng có dáng dấp một khu vườn ngự uyển.
Thế nhưng nhà thì vắng bóng người tuy lửa củi gỗ vẫn còn cháy trong lò và
gà mái vẫn cục cục ngoài sân.
- Chắc hẳn họ đã bỏ trốn cùng với dụng cụ nhà bếp khi trông thấy buồm tàu
chúng ta - một người trong đoàn thủy thủ am hiểu vùng này kên tiếng - Đấy
là thói quen của những người ở đây, nhất là trong các xóm người Pháp thưa
thớt không có phương tiện phòng thủ. Hễ có bóng một con tàu người Anh
thì họ chạy trốn vào rừng vài hôm còn hơn là bị bắt mang về Bôxton. Người
Pháp khiếp hãi món cháo đại mạch của các tín đồ Thanh giáo lắm!
Đoàn người trên tàu Lơ Rôsơle quyết định thử vận may ở phía anh em nhà
Đơphua cách đây nửa dặm.
Họ may mắn gặp Amêđê người em thứ ba hiếu khách. Hai người anh đi
thám thính trên sông Xanh - Giăng chưa về, Amêđê, em út, với con mèo -
họ có một chú mèo giống như chủ: to, béo, lầm lì - trông nhà, săn bắn và
đánh cá. Phải chuẩn bị cho mùa đông, thu thập và đổi lấy lông thú người da
đỏ mang tới, thu hoạch ít ngũ cốc, khoai tây, vỗ béo lợn, xông khói thịt thú
rừng. Họ sống
ở đây với tư cách những vị lãnh chúa nơi thôn dã, tích trữ của cải, không rõ
vì giấc mơ xa xăm trở về Pháp, giàu có, hay không trở về mà chỉ để sống
thoải mái và thịnh vượng cho tới giờ phút cuối cùng. Những con người như
thế tất nhiên không muốn bị quấy quả. Dù là bởi các ngài thống đốc, các
giáo sĩ hay các quan chức thu thuế đi nữa.
Ngược lại, đối với bạn bè thì tấm lòng hiếu khách của họ là vô biên. Người
anh cả đã tỏ rõ tấm lòng thịnh tình ấy bẵng cách bắt bọn lính ở pháo đài
Mari giao cho bá tước đờ Perắc. Họ thích tỏ ra hào phóng khi có thể gây