một tiếng, quả nhiên có kẻ la lên thảm thiết, ngã gục trước mặt cậu, tay ôm
quai hàm lăn lộn dưới đất, xem ra răng đã bị cán thương đập gãy. Cố Tư
Văn bước lên bồi thêm một cước vào đầu, khiến tên lính đó ngất lịm, còn
hậm hực mắng: “Xem ngươi còn giả thần giả quỷ dọa người nữa thôi.”
Khinh công của Hữu Hiên tiên sinh đã luyện nửa đời, không có chút nào
giả trá, ông vứt khẩu súng Tây nặng trịch xuống, nhặt thanh đao nhẹ nhàng
linh hoạt lên, đâm chém liên tục như ma quỷ, hễ nghe thấy bất cứ tiếng gió
lay cỏ động bất thường nào xung quanh, ông đều vung đao chém tới, chẳng
mấy chốc, trên đỉnh núi đã la liệt mấy chục cái xác. Dưới sườn dốc núi
Tham Lang vẫn không ngớt tiếng nổ đì đùng, hẳn là những tên xạ thủ bỏ
chạy trên đường xuống núi giẫm phải địa lôi.
Thoắt chốc, trên đỉnh núi đã mù mịt khói, Hữu Hiên tiên sinh và Cố Tư
Văn cũng ho sặc sụa, cả hai gắng nhịn ho càn quét thêm một vòng nữa, tới
khi không còn nghe thấy tiếng kẻ khác ho mới thôi. Cố Tư Văn lớn tiếng
hỏi: “Đại sư bá, khụ khụ, người không sao chứ?”
Hữu Hiên tiên sinh đã bị khói hun đến nỗi nước mắt nước mũi giàn giụa
như con nghiện lên cơn vật thuốc, đáp: “Ta... Khụ khụ khụ... Không sao,
mau nghĩ cách giúp A Long đi!”
Qua làn sương đen, hai người nhìn lên đài trảm long thấy An Long Nhi
mình đầy vết thương đang nhảy lên đáp xuống đấu với An Thanh Nguyên,
xung quanh An Long Nhi hoa lửa bắn tứ tung, phát ra tiếng leng keng không
ngớt, tựa hồ có mấy người đang đồng thời tấn công cậu vậy. An Long Nhi
gọi to: “Hai người mau chém đứt rãnh máu dưới đất đi, đừng để máu chảy
vào tử huyệt nữa.”
Ở phía ngoài, cách đài trảm long chừng bảy trượng, trên nền đất có một
cái hố lớn, đây chính là long mạch tử huyệt mà An Long Nhi nói, một hàng
ống tre bắc thành con kênh nối từ đáy đài trảm long tới cái hố, trong hố, máu
đã ngập đến lưng chừng, đang từ từ thấm vào lòng đất, từ dưới hố, một cơn
lốc đỏ rực màu máu bốc lên, nhằm thẳng vào vầng sáng ngũ sắc trên trời,
Hữu Hiên tiên sinh vừa nghe An Long Nhi nói dứt câu, liền tung người lao