những khu vực do Bắc Việt đã đánh chiếm được.
Năm 1964 là năm ghi dấu mức leo thang thâm nhập lãnh thổ Lào của Bắc
Việt, phần vì nhu cầu chuyển quân xuống Nam Việt Nam, phần vì phải cứu
nguy cho quân CS Lào. Trong cuộc tấn công mùa mưa của quân hữu phái,
CS Lào đã phải bỏ đường 13, nhất là hai thị trấn quan trọng Vang Vieng và
Sala Phou Khoun; ngoài ra quân hữu phái còn lấn chiếm lập cả tiền đồn sâu
vào lãnh thổ Phong Saly và Sầm Nứa. Trong năm 1965, Bắc Việt đã tấn
công mở đường và đã hoàn toàn làm chủ miền đông Hạ Lào với hai cửa
ngõ yết hầu sang Lào là đèo Mụ Giạ và Bản Karai. Đồng thời Bắc Việt
cũng khai thông đèo Keo Neua và Napé, và mở được Đường số 7 qua đèo
Barthélémy sang Cánh Đồng Chum.
Cuối năm 1967, tình hình Lào tương đối ổn định. Hữu phái Lào kiểm soát
hoàn toàn được 50% và bán phần được 20% lãnh thổ. Tuy nhiên, từ tháng 1
năm 1968, Lào đã bị Bắc Việt tấn công dữ dội song song với cuộc tổng
công kích tại miền Nam Việt Nam. Ngày 13 tháng 1 năm 1968, Bắc Việt
mở đầu cuộc công kích bằng trận đánh thung lũng Nam Bao làm tan rã
2.000 quân hữu phái. Tại Cánh Đồng Chum, Bắc Việt và Cộng Sản Lào đã
phá rã nhiều tiền đồn hữu phái ở Xieng Khouang và tràn sang vùng Cửu
Long có ý muốn cắt đôi xứ Lào. Ngay từ đầu năm, Bắc Việt cũng đã đánh
chiếm nhiều tiền đồn hữu phái dọc đường số 9 và xây dựng Tchépone thành
căn cứ hậu cần quan trọng để tiếp tế cho ba sư đoàn đang vây ép tập đoàn
cứ điểm Khe Sanh của Mỹ ở Quảng Trị. Tại Nam Hạ Lào, Bắc Việt đã khởi
sự bao vây cô lập Saravane và Attopeu từ tháng hai, đồng thời cũng biểu
dương lực lượng bức rút căn cứ Lao Ngam ở tây nam Saravane.
Về phía hữu phái, sau những mất mát nặng nề lúc ban đầu, các lực lượng
địa phương cũng đã đoạt lại nhiều khu vực đáng kể. Tháng 5 năm 1968,
trong cuộc phản công đầu mùa mưa, quân hữu phái đã mở lại được đường
số 9 tới Mường Phalane và khai thông được một số trục lộ tại cao nguyên
Boloven. Tại mạn Đông Bắc, lực lượng đặc biệt Vang Pao đã chiếm lại