bộ phận phòng không và một bộ phận xe tăng, đã dồn quân Vang Pao vào
cứ điểm cuối cùng là Long Cheng. Long Cheng là nơi có bộ tư lệnh quân
khu II của Vang Pao, đồng thời cũng là một căn cứ chính của bộ phận Cơ
Quan Tình Báo Trung Ương Mỹ (CIA) ở Lào. Cộng quân đã thâm nhập
hàng rào phòng thủ cứ điểm Long Cheng, nhưng Long Cheng đã không
mất nhờ phi pháo Mỹ yểm trợ đắc lực.
Sang tháng 3 năm 1972, Vang Pao chiếm lại được Sam Thong, tới tháng 9
chiếm thêm được mẩu nam Cánh Đồng Chum, nhưng giữa tháng 10 lại bị
đẩy lui. Cuối năm 1972, Vang Pao tấn công lần nữa, nhưng cũng lại bị đẩy
lui, nghĩa là rút cục sang mùa khô Cánh Đồng Chum vẫn tiếp tục nằm trong
tay cộng quân. Ở Hạ Lào, chiến trận đã xảy ra xung quanh vùng Paksé. Thị
trấn Kong Sédone ở bắc Paksé đã bị chiếm đi, đoạt lại nhiều lần trong suốt
năm 1972.
Những trận đánh cuối năm 1972 và đầu năm 1973 trở nên dữ dội vì cả hai
bên cùng cố tạo thế thượng phong để làm áp lực cho cuộc hoà đàm ở
Vientiane (khai diễn ngày 17 tháng 10 năm 1972) giữa đại diện chính phủ
Phouma cùng đại diện phe cộng và thân cộng. Quan trọng nhất là trận đánh
đường 13 nối Vientiane với Luang Prabang. Cộng quân đã chiếm được 200
km trên đ đường 13, trong đó có giao lộ chiến lược Sala Phou Khoun. Tại
Hạ Lào, dưới hoả lực dữ dội của CS trong cuộc tấn công suốt ba tuần lễ,
quân hữu phái rút khỏi thị trấn Saravane.
Tới ngày 21 tháng 2 năm 1973, đôi bên đã ký hiệp định dình chiến, nhưng
cũng như tại Việt Nam, tiếng súng đã không vì thế mà ngưng hẳn và hơn
nữa, chưa có dấu hiệu gì cho thấy quân ngoại nhập chuẩn bị rút khỏi Lào.
Quân Ngoại Nhập
Nói đến quân ngoại nhập tại Lào, thông thường người ta nghĩ ngay đến
quân Bắc Việt. Điều đó đúng, vì quân Bắc Việt giữ một vai trò quan trọng
bậc nhất trong cuộc chiến tranh tại Lào. Tuy nhiên, ngoài quân Bắc Việt