Giai đoạn chiến tranh Việt Nam hoá và chiến tranh chống Việt Nam hoá là
giai đoạn vừa xảy ra trước mắt chúng ta. Tuy nhiên, phác định lại vài điểm
làm tiêu mốc tưởng cũng không phải là vô ích. Đầu năm 1969, số lượng
quân Mỹ ở VN lên đến trên nửa triệu (ngày 20 tháng 1 năm 1969:
549.500), tức là số cao nhất trong cuộc chiến. Sau đó Mỹ dần dần rút quân
để thực hiện Việt Nam hoá. Như trên đã nói, đây là giai đoạn Mỹ trở về
chiến tranh uỷ nhiệm; nhưng chưa hoàn toàn uỷ nhiệm như danh xưng, vì
bộ binh Mỹ còn tham chiến mạnh mẽ tại khắp Đông Dương, nhất là vào
năm 1972, năm có cuộc tổng công kích mới của CS.
Năm 1970, cuộc đảo chính ở Kam-pu-chia đã đưa chiến tranh VN sang một
khúc rẽ mới: chiến trường mở rộng hơn, quân đội VN hai bên bị căng ra
nhiều hơn, và lần đầu tiên trong lịch sử, những lực lượng lớn VN đã tìm
diệt nhau trên lãnh thổ nước ngoài. Về phía Mỹ, việc vượt biên của các đơn
vị VNCH là một thử thách mới với chương trình Việt Nam hoá. Tuy nhiên,
thử thách ấy còn quá nhỏ bé, chưa chứng tỏ được khả năng tham dự chiến
tranh quy ước mà Mỹ cho là cần thiết. Do đó mới có trận Hạ Lào 1971
(Lam Sơn 719).
Chính trận Hạ Lào đã tạo ra một niềm lạc quan mới cho phía CS về một
khả năng đánh quỵ Việt Nam hoá bằng chiến tranh quy ước. CS đã thể hiện
ý đồ ấy bằng trận tổng công kích mới khởi sự từ ngày 31 tháng 3 năm
1972. Lúc đầu, nhờ bất thần đánh tràn qua giới tuyến, CS đã đạt được
những thắng lợi rất đáng kể. Dồn hết lực lượng vào Nam, kể cả toàn bộ cơ
giới, bỏ ngỏ đất Bắc, đó là nước bài liều lĩnh của chiến lược gia Bắc Việt.
Sở dĩ Hà Nội đi nước bài ấy vì tiên liệu bất cứ tình huống nào, Mỹ cũng
không dám đánh thẳng ra Bắc. Điều này Hà Nội đã tính đúng, nhưng lại
không ngờ đến chuyện Nixon có thể làm một hành động không kém táo
bạo là phong toả các hải cảng cùng thuỷ lộ và oanh tạc dữ dội miền Bắc
(ngày 8 tháng 5 năm 1972.)
Trên chiến trường, nhờ được trang bị tối tân, nên Cộng quân đã chiến đấu