này tăng lên 1.233.000, và sau khi Indonesia thâu hồi độc lập, tổng số Hoa
kiều là 2.250.000 và đạt tới 2,7% dân số. Ngày nay, nhờ nỗ lực vận động
nhập tịch, số người Tàu thực sự được coi là ngoại kiều chỉ có 1,4 triệu. Kể
từ khi bang giao Indonesia – Trung Cộng bớt căng thẳng, việc nhập tịch
không thể tiến hành được nữa, vì Hoa kiều tin tưởng ở sự bảo vệ của chính
phủ Bắc Kinh.
Tại Mã Lai Á và Singapore, người Tàu hiện đều đông hơn người Mã gốc.
Ở Mã Lai Á có 4 triệu người Tàu, chiếm 42% dân số, trong khi người Mã
gốc chỉ có 40%, phần còn lại là người gốc Ấn, gốc Âu, v..v… Còn ở
Singapore, người Tàu có 1,5 triệu và người Mã gốc 240.000 trong tổng số 2
triệu dân. Như vậy, người Mã gốc chỉ chiếm 12%, trong khi người Tàu
75%.
Tại Lào, Hoa kiều có 30.000, chiếm 1% dân số. Lào là nước có ít Hoa kiều
nhất, nhưng lại bị Bắc Kinh chi phối nội tình (các tỉnh Bắc Lào) nặng nề
nhất.
Tại Thái, số Hoa kiều đã lên tới 3 triệu vào năm 1957, tức 13% dân số lúc
ấy (23 triệu.) Ngày nay, khó mà phân biệt được thành phần Hoa kiều với
thành phần Lukchin (cha Tàu, mẹ Thái) vì đối với chính phủ Thái, Lukchin
đương nhiên là Thái, nhưng đối với người Tàu, họ vẫn thừa nhận quốc tịch
cha cho Lukchin. Do đó, nếu kể chung cả hai loại này thì con số phải vượt
lên trên 4 triệu.
Tại Miến Điện, tổng số Hoa kiều có chừng nửa triệu, tức độ 1,8% dân số.
Ngoài loại Hoa kiều thông thường, biên giới Thái – Miến hiện nay vẫn còn
là nơi trú ngụ của đám tàn quân Quốc Dân Đảng (đã trình bày trong chương
9). Đám quân này đã sử dụng vũ khí biến khu vực thành địa cứ riêng của
chúng. Căn cứ Quốc Dân Đảng hiện đã trở nên trung tâm sản xuất, chế biến
và phân phối ma tuý lớn nhất thế giới. Nha phiến và bạch phiến sản xuất ở
đây đã được tung ra khắp nơi qua ngã Hương Cảng và Singapore bằng
những đường dây buôn lậu quốc tế. Riêng tại Đông Nam Á, tổ chức Quốc
Dân Đảng này đã gián tiếp đầu độc hàng triệu thanh thiếu niên các dân tộc