Với cung cách ấy, sử Phi Luật Tân do người Âu Mỹ viết đã bắt đầu bằng
câu “Fernando Magélan đã khám phá ra quần đảo này ngày 16 tháng 3 năm
1521”. Công bằng và hợp lý hơn, chúng ta phải nói nhóm người Âu đầu
tiên đến tiếp xúc với dân ở quần đảo Nam Hải này do Magélan cầm đầu.
Magélan nguyên là một nhà hàng hải Bồ Đào Nha, nhưng hồi đó phục vụ
cho chính phủ Tây Ban Nha.
Hai mươi mốt năm sau, triều đình Madrid cho người trở lại và đặt tên cho
quần đảo là Phi-líp-pin (Philippines) theo tên hoàng-tử Philip (sau này là
quốc vương Philip đệ nhị của Tây Ban Nha) và đặt nền đô hộ xứ này suốt
350 năm. Cho đến năm 1899, Tây Ban Nha nhượng lại quần đảo cho Mỹ
sau trận chiến tranh giữa hai nước. Việc nhượng lại đã được thi hành theo
thỏa ước Paris với giá 20 triệu Mỹ-kim mà Mỹ phải trả cho Tây.
Cuối thời Tây Ban Nha đô hộ, có một nhóm trí thức du học Châu Âu về đã
lãnh đạo một cuộc nổi dậy đòi bỏ chế độ thuộc địa biến Phi-líp-pin thành
một tỉnh của Tây Ban Nha để dân Phi được hưởng quyền công dân như dân
Tây Ban Nha. José Rizal, y sĩ kiêm điêu khắc gia, thi sĩ và tiểu thuyết gia,
là người nổi bật nhất trong nhóm lãnh đạo. Ông bị bắt, bị khép vào tội
phiến loạn và bị bắn chết năm 1896. Cuộc nổi dậy không vì thế mà bị dập
tắt, trái lại còn lan rộng ra nhiều tỉnh trở thành một phong trào cách mạng
chủ trương lật đổ quyền thống trị của Tây.
Sau mấy tháng chống cự mặt đối mặt với quân đội thống trị, quân cách
mạng túng thế phải rút vào vùng rừng núi tiếp tục chiến đấu với chiến thuật
du kích. Tới tháng 8 năm 1897 đôi bên điều đình ngưng chiến. Nhưng sau
chiến thắng của Hải Quân Mỹ ở vịnh Manila ngày 16 tháng 5 năm 1898,
chưa đầy một tháng kể từ khi khởi chiến giữa Tây Ban Nha và Mỹ, thì quân
cách mạng lại chỉnh bị lại hàng ngũ và tuyên bố quốc gia Phi độc lập.
Emilio Aguinaldo, người lãnh đạo quân cách mạng thời ấy, vốn thừa kế sự
nghiệp của nhóm trí thức khởi xướng, nhưng lại chủ trương thực hiện độc
lập hoàn toàn và cải tạo xã hội mạnh mẽ chứ không chấp nhận những đòi