món bưng đến để thầy chấm xem thức ăn nhà ai ngon hơn cả. Lại định lệ
rằng món quý chỉ người vợ khéo tay nấu nướng, không được nhờ ai.
Anh học trò lấy vợ Cóc làm thế nào bây giờ? Vợ anh chỉ biết nhảy ra
uống sương ngoài vườn, thế thì làm sao nấu được món ăn ngon đưa đến nhà
thầy.
Anh đồ lo quá. Anh không dám nói với vợ, nhưng anh không nín được
đôi lúc thở dài. Cóc đã đoán được nỗi buồn phiền của chồng, bèn gặng hỏi.
Anh phải nói thật, thì vợ Cóc cười khanh khách mà rằng:
– Tưởng gì, em sẽ nấu một bát cá lăng canh chua quả dọc để anh mang
biếu thầy.
Hôm nhà thầy có việc, sáng sớm anh vừa trở dậy nhìn trên án thư đậy
lồng bàn đã thấy trong có bát canh cá lăng, khói thơm nghi ngút. Cá lăng
sinh sống ở ngã ba sông Cái, mỗi năm chỉ ra ăn vào kỳ có gió rải đồng.
Chẳng mấy ai biết cá lăng, chỉ nghe đồn thịt cá anh vũ thơm ngon nhất, thế
mà vợ cóc đã tìm được, nấu được món cá hiếm quý đem biếu thầy.
Anh bưng mâm cá đem đến nhà thầy. Ai cũng xúm đến xem cá anh vũ
mỡ vàng như nghệ. Đến lúc thầy nếm, miếng cá thơm hơn nấm hương. Thế
là món biếu thầy của anh học trò có vợ Cóc không ai bằng được. Ai cũng
hỏi anh mua cá hiếm này ở chợ hay ở bến, vợ anh nấu canh cá thế nào. Anh
chỉ cười.
Nhưng đám học trò chưa chịu thôi các trò ranh ma khoảnh ác. Anh
chàng lấy vợ cóc vẫn thản nhiên cười nói thì họ bực lắm.
Chẳng bao lâu, đến dịp thầy đồ làm lễ thượng thọ. Học trò mỗi người
may một bộ quần áo mới mừng thầy. Trưởng tràng lại ra lệ đua tài, không
ướm, không đo mà làm sao vừa khổ người thầy, lại phải là của vợ hiền may.
Đi học về, anh chàng bước thất thểu, mặt thẫn thờ. Vợ Cóc hỏi có việc
gì không vui. Anh kể. Vợ Cóc nói:
– Anh chớ quá nghĩ mà chểnh mảng học hành. Ngày mai, anh ở nhà
thầy về, thì em đã may xong.