Ngưỡi An Nam đứng lên và mặt bỗng lộ vẻ nghĩ ngợi:
- Cám ơn đại úy... Thật vui mừng hết sức về những khẩu Colt .45 đại úy
vừa nói tới. Đặc biệt nếu anh có thể cho tôi tiếp nhận loại súng chưa hề
khui ra, còn trong vỏ và nguyên xi bao bì. Giờ đây tôi phải đi trước khi làm
anh thấm mệt vì trò chuyện quá nhiều.
Hồ Chí Minh bắt tay Joseph thật chặt và dợm chân đi thẳng. Nhưng rồi ông
tần ngần quay mình lại, mở nút một trong những túi áo ka-ki bạc màu. Bộ
mặt nhăn nheo của ông thoáng một nụ cười ngượng nghịu:
- Đại úy Sherman, xin anh đừng chấp lão già đa cảm này nếu tới lượt mình
đền đáp lòng tử tế của anh, già xin tặng anh một bài thơ mọn già vừa làm.
Hồ Chí Minh đưa về phía người Mỹ một tờ giấy dó màu lục gấp làm tư.
Xúc động trước cử chỉ đó, Joseph trả lời:
- Tôi rất sung sướng tiếp nhận. Ở Pắc Bó, anh Đào VănLật có đọc cho tôi
nghe mấy bài thơ của ông. Lúc đó, tôi rất ngưỡng mộ.
- Tôi làm bài thơ này trên đường băng núi đi bộ từ Bắc kỳ sang đây. Trong
khi làm, tôi nghĩ tới anh và cầu mong anh chóng bình phục. Trong chiếc
máy bay lâm nạn, anh đã kề cận cái chết và anh sống sót. Điều đó làm tôi
nhớ lại bản thân mình cũng từng thoát khỏi bàn tay của tử thần - tôi gần
như sắp lìa đời lúc ở trong nhà ngục tại Trung Hoa.
Joseph mở tờ giấy, thấy bài thơ có tám câu, viết với nét chữ loằng ngoằng
như chân nhện từng được anh xem xét trong tờ nhắn lúc nãy. Bài thơ ghi
bằng tiếng Anh, và rõ ràng được dịch từ một nguyên bản chữ nho. Anh đọc
thấy:
TRỜI HỬNG
Sự vật vần xoay đà định sẵn:
Hết mưa là nắng hửng lên thôi;
Đất trời một thoáng thu màn ướt,
Sông núi muôn trùng trải gấm phơi;
Trời ấm, hoa cười chào gió nhẹ,
Cây cao, chim hót rộn cành tươi,
Người cùng vạn vật đều phơi phới:
Hết khổ là vui, vốn lẽ đời.