48
4. Văn tài và đức độ
Sau khi đỗ Trạng nguyên, Đào Sư Tích được giữ
chức Nhập nội hành khiển, sau được phong tước
Mậu quốc công.
Tháng 12 năm Quý Hợi (1383) đời vua Trần Phế
Đế (1377 - 1388), Đào Sư Tích được Thượng hoàng
Trần Nghệ Tông tin yêu giao cho viết bài tựa tập
sách Bảo hòa dư bút gồm tám quyển nhằm răn dạy
vua nối ngôi.
Lúc này vua Trần rất tin dùng Hồ Quý Ly
1
. Hồ
Quý Ly giữ ngôi thái sư, đã có ý lộng quyền, cướp
ngôi vua. Năm 1392, ông ta viết sách Minh đạo gồm
mười bốn thiên, dâng lên vua, tỏ ý muốn sắp xếp lại
bài vị của Khổng Tử thờ ở Văn Miếu vì theo Hồ Quý
Ly, Khổng Tử chưa phải là tiên thánh nên không
được ngồi chính giữa là vị trí của thiên tử. Sách
Minh đạo còn tỏ ý nghi ngờ Khổng Tử, phê phán một
số nhà hiền triết của Trung Quốc cổ đại.
Nhận thấy đây là một âm mưu của Hồ Quý Ly,
chối bỏ cả đạo nghĩa vua tôi, nhiều vị đại thần trong
triều đã dâng thư can Thượng hoàng không nên
nghe theo Hồ Quý Ly. Hồ Quý Ly bèn lập mưu hãm
_______________
1. Hồ Quý Ly (1336-1407) người làng Đại Lại, huyện
Vĩnh Phúc, phủ Thanh Hóa, nay thuộc Thanh Hóa. Năm
1400, Hồ Quý Ly soán ngôi nhà Trần, lên làm hoàng đế,
đổi tên nước thành Đại Ngu.
49
hại. Đào Sư Tích vì có liên quan đến việc này mà bị
Hồ Quý Ly giáng chức.
Chán cảnh nghịch thần chuyên quyền, Đào Sư
Tích cáo quan về quê dạy học.
Năm 1394 nhà Minh có dã tâm xâm chiếm nước
ta, đưa ra rất nhiều yêu sách, bắt cống nạp nhiều lễ
vật. Vua Trần biết Đào Sư Tích là người có tài ứng
xử, học nhiều hiểu rộng, biết cách bang giao liền
xuống chiếu cho mời ông về triều và cử đi sứ sang
nhà Minh. Bằng tài năng của mình, Đào Sư Tích đã
thuyết phục được vua Minh xóa bỏ các lệ cống nạp
hằng năm giữa nước Việt với nhà Minh.
Ngày 4 tháng 9 năm 1396 Đào Sư Tích qua đời
đột ngột trong thời gian đi sứ. Thi hài ông được đưa
về nước mai táng tại phủ Thiên Trường. Tưởng nhớ
công lao của ông, nhân dân vùng Cổ Lễ đã lập đền
thờ thờ ông cùng với cha là Đào Toàn Bân, gọi là
Đào Sư Tích từ. Ông được phong phúc thần.
Tác phẩm của ông đến nay chỉ còn lại Văn sách
thi đình (Bài văn thi đình), Cảnh tinh phú (Bài phú
sao Cảnh) và bài thơ Quy điền do dòng tộc sưu
tầm được. Tương truyền, ông làm bài thơ Quy điền
khi nhận lệnh triều đình đi chiêu dân lập ấp tại
vùng Đông Trang, nay thuộc Hoa Lư, Ninh Bình.
Nhiều địa phương ở đó đã tôn ông làm Thành
hoàng làng.
Dưới đây là bài thơ Quy điền của Đào Sư Tích: