56
Nguyễn Trực thường khuyên can vua những
điều nên làm và không nên làm, Lê Thánh Tông có
lúc giận, nhưng thấy ông là người trung trực nên
cũng rất nể vì, vẫn giữ ông ở lại triều đình. Nguyễn
Trực bèn than thở:
Đại đình tằng đối tam thiên tự,
Phù thế hư kinh ngũ thập niên.
Bất thị vô tâm lai cấm tỉnh,
Chí nhân đa bệnh ức điền viên.
Dịch nghĩa:
Ở sân vua từng làm bài đối sách 300 chữ,
Trải 50 năm trời ta sống không toại nguyện,
Không phải là vô tâm với nơi cung cấm nhà vua,
Vì chưng lắm bệnh, nhớ cảnh ruộng vườn.
Nguyễn Trực là người đỗ đại khoa mà không
màng công danh phú quý, thường muốn về với
mảnh ruộng, góc vườn, dạy học, làm thuốc cứu giúp
nhân dân. Cho đến khi mất ông vẫn giữ được tấm
lòng trong sạch.
Trạng nguyên Nguyễn Trực mất năm 1473, đúng
vào lúc tài năng đang ở độ chín muồi.
57
TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN NGHIÊU TƯ
*
Nguyễn Nghiêu Tư tự Quân Trù, hiệu Tùng
Khê, người xã Phù Lương, huyện Võ Giàng, phủ Từ
Sơn, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Phù Lương, xã Phù
Lương, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh).
Ông đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Thìn (1448), đời
vua Lê Nhân Tông.
Làm quan đến chức Thượng thư chưởng lục bộ.
Hiện tác phẩm của ông còn lại hai bài thơ chữ
Hán chép trong ʺToàn Việt thi lụcʺ
1
.
GIAI THOẠI
VỀ TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN NGHIÊU TƯ
1. Lớn lên con sẽ làm Trạng
Tương truyền, cha của Nguyễn Nghiêu Tư làm
_______________
* Chưa rõ năm sinh, năm mất của Trạng nguyên Nguyễn
Nghiêu Tư.
1. Toàn Việt thi lục: Bộ hợp tuyển thơ chữ Hán do nhà
bác học Lê Quý Đôn biên soạn.