Trang Tử và Nam Hoa Kinh
Nguyễn Hiến Lê
Tạo Ebook:
Nguyễn Kim Vỹ
Nguồn truyện: vnthuquan.net
757 [1] Nguyên văn: Lục thông, tứ tịch. Lục thông là trên dƣới, đông tây nam bắc; tứ tịch là bốn
mùa.
758 [2] Nghĩa là hành động một cách vô tâm, không ai thấy, biết (vì hợp với tự nhiên).
759 [3] Nguyên văn: hư tắc thực, thực giả luân hĩ. Vƣơng Thúc Mân bảo chữ luân đó phải sửa là bị
(đủ). Có sách giữ chữ luân và dịch là: hƣ thì hợp với đạo chân thực, đạo chân thực là luân lí tự nhiên.
760 [4] Nguyên văn: tố vương. Danh từ này xuất hiện trong đời Hán. Khổng Tử đƣợc coi là một vị tố
vƣơng.
761 [5] Đoạn này chỉ khác đoạn trong Đại tôn sƣ – 6 có vài chữ. Khác nhiều nhất là cuối câu này.
Trong Đại tôn sƣ, đây là lời của Hứa Do, nghĩa là lời Trang tử tự đặt vào miệng Hứa Do.
762 [6] Nguyên văn: thánh nhân chi tâm dĩ súc thiên hạ dã. L.K.h. dịch là: cái lòng của thánh nhân
đƣợc duy trì trong vũ trụ. Âu Dƣơng Tu, một văn hào đời Tống chê đoạn này viết dở quá.
763 [7] V.P.C. bảo: Đây không phải là ý nghĩa vô vi của Lão, Trang, mà có lẽ là tƣ tƣởng của Lí Tƣ
dƣới đời Tần Thuỷ Hoàng.
764 [8] Nguyên văn: tam quân, ngũ binh: ba đạo quân và năm thứ binh khí; mỗi thuyết một khác, đại
khái là cung, tên, cái mâu, ngọn giáo, cây kích.
765 [9] Ngũ hình: mỗi thuyết một khác, đại khái là tội chết, tội đày có hạn, đày không hạn, giam,
phạt tiền.
766 [10] Có lẽ tác giả muốn nói: nếu chỉ có hình thức thì không có hiệu quả.
767 [11] Rõ ràng bài này do một ngƣời theo đạo Nho viết.
768 [12] Nguyên văn là thiên.
769 [13] Tức nhƣ hạng Tô Tần, Trƣơng Nghi.