Trang Tử và Nam Hoa Kinh
Nguyễn Hiến Lê
Tạo Ebook:
Nguyễn Kim Vỹ
Nguồn truyện: vnthuquan.net
Chú thích:
14[1] Trong sách, bảng này in ở trang 13. [Goldfish]
15[2]Coi Mạnh tử của Nguyễn Hiến Lê – Cảo Thơm 1975.
16[3]Tƣ Mã Thiên đã xét lầm Trang. Trong phần II và IV, chúng ta sẽ thấy những chƣơng này không
phải của Trang viết mặc dầu ở bộ Trang tử.
17[4] Giả thuyết: sách in là giả thiết. [Goldfish].
18[5] Theo bác Vvn: Bùi Nhân 裴駰còn đọc là Phí Nhân, ông sống vào thời Nam Tống, và Tập giải
tức Sử kí tập giải. [Goldfish].
19[6]Số La Mã chỉ số chƣơng, số Ả Rập chỉ số bài. XXI.5 là chƣơng XXI, bài 5. Các bản chữ Hán
đều chia chƣơng, tôi lại chia thành nhiều bài nếu có thể đƣợc, cho độc giả dễ kiếm.
20[7] Một thứ nhạc khí thô sơ bằng đất của Tần.
14 [1] Chữ ngụ ngôn ở đây nghĩa rộng hơn nghĩa ngày nay. Ngụ là ở, là gởi. Chẳng những đặt ra một
truyện để gởi vào đó một ý, là ngụ ngôn; mà mƣợn lời ngƣời khác nói thay cho mình (nhƣ cha mẹ
nhờ bà mối hỏi vợ cho con: coi đoạn sau trong bài) cũng là ngụ ngôn. Trọng ngôn là những lời mà
thiên hạ cho là đáng tin, đáng trọng nhƣ khi dẫn lời của Khổng Tử, Lão tử, Hoàng Đế, Nhan Hồi…
thì những lời đó là trọng ngôn. Chi ngôn – Chi là một thứ chén hễ đầy nƣớc thì nó lật đổ, không có
nƣớc thì đứng lại ngay. Những lời thích hợp với những hoàn cảnh thay đổi mỗi ngày thì gọi là chi
ngôn. Câu đầu chƣơng này có hai cách dịch. Một cách của Quách Tƣợng (?), L.K.h. theo, dịch là:
ngụ ngôn chứa chín phần mƣời chân lí (nghĩa là 10 lần thì đáng tin tới 9); trọng ngôn chức bảy phần
mƣời chân lí. Một cách nữa của V.P.C., Diêu Nại, đƣợc D.N.L., H.C.H. theo mà dịch nhƣ trên.
V.P.C. giảng nhƣ vậy có lẽ vì ông cho rằng bài 1 chƣơng Ngụ ngôn này do Trang tử viết để làm bài
tựa cho cả cuốn. chúng tôi dịch theo Vƣơng, nhƣng thấy cả hai cách đều chƣa ổn.