công thánh chiến vào Iraq và Syria. Sự ra đời của nền chính trị bầu cử ở
Iraq vào năm 2004 gần như chắc chắn truyền cảm hứng cho nhu cầu về các
thể chế đại diện ở những nơi khác trong khu vực; tuy nhiên điều cần xem
xét là liệu chúng có thể được kết hợp với một tinh thần khoan dung và thỏa
hiệp hòa bình hay không.
Khi Mỹ xem xét các bài học của các cuộc chiến tranh ở thế kỷ 21 của
mình, điều quan trọng là cần nhớ rằng không một cường quốc lớn nào khác
ngoài chính mình mang lại những nỗ lực chiến lược với khát khao được
cảm nhận sâu sắc về cuộc sống tốt đẹp hơn cho loài người. Có một đặc
điểm đặc biệt đối với một quốc gia tuyên bố mục đích chiến tranh không
chỉ nhằm mục đích trừng phạt kẻ thù mà còn cải thiện cuộc sống của những
người dân nơi đó – đất nước tìm chiến thắng không ở sự thống trị mà ở việc
chia sẻ những thành quả của tự do. Nước Mỹ sẽ không thành thật với chính
mình nếu nó từ bỏ chủ nghĩa lý tưởng thuộc bản chất này. Nó cũng sẽ
không thể trấn an những người bạn (hoặc giành chiến thắng trước kẻ thù)
khi gạt sang một bên khía cạnh cốt lõi như vậy trong kinh nghiệm quốc gia
của mình. Nhưng để có hiệu quả, những khía cạnh đầy khát vọng đó của
chính sách cần phải được kết hợp với sự phân tích không ủy mị về các nhân
tố cơ bản, bao gồm cả cơ cấu văn hóa và địa chính trị của các khu vực khác
cũng như sự cam kết và khéo léo của kẻ thù trong việc chống lại các lợi ích
và giá trị Mỹ. Những khát vọng đạo đức của Mỹ cần được kết hợp với một
cách tiếp cận có tính đến yếu tố chiến lược của chính sách trong điều kiện
người Mỹ có thể ủng hộ và duy trì qua nhiều chu kỳ chính trị.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ George Shultz đã khôn ngoan nêu rõ sự nước
đôi của Mỹ:
Là một dân tộc có đạo đức, người Mỹ muốn chính sách đối ngoại của
mình phản ánh các giá trị mà chúng ta tán thành với tư cách một quốc gia.
Nhưng là một dân tộc thực tế, người Mỹ cũng muốn chính sách đối ngoại
của mình có hiệu quả.
Các cuộc tranh luận trong nước Mỹ thường được miêu tả như là cuộc
đối đầu giữa chủ nghĩa lý tưởng và chủ nghĩa thực tế. Nhưng đối với Mỹ và