Ngay từ đầu chúng tôi đã nói rằng sẽ không dạy bạn về kế toán, vậy nên chúng
tôi sẽ không làm thế. Tuy nhiên, có một khái niệm kế toán sẽ được chúng tôi giải
thích trong chương này, vì một khi bạn hiểu nó, bạn sẽ hiểu được chính xác thế nào
là một báo cáo kết quả kinh doanh, và thứ đó đang cố nói với bạn điều gì. Dù vậy,
trước tiên chúng tôi muốn lùi lại một bước và đảm bảo rằng không có một sự hiểu
lầm nghiêm trọng nào lẩn khuất trong tâm trí bạn.
Bạn cũng biết, báo cáo kết quả kinh doanh có nhiệm vụ thể hiện lợi nhuận của
doanh nghiệp trong một giai đoạn nhất định − thường là một tháng, một quý hoặc
một năm. Chỉ cần chút ít khả năng tưởng tượng là bạn có thể kết luận, báo cáo kết
quả kinh doanh cho biết doanh nghiệp đã thu được bao nhiêu tiền mặt trong giai
đoạn đó, chi tiêu bao nhiêu, và còn lại bao nhiêu. Phần “còn lại” ắt sẽ trở thành lợi
nhuận của doanh nghiệp, đúng chứ?
Nhưng, không đâu. Ngoại trừ một vài doanh nghiệp rất rất nhỏ làm kế toán
theo kiểu ấy − được gọi là kế toán dựa trên tiền mặt − quan niệm như thế về báo
cáo kết quả kinh doanh và lợi nhuận là một sự hiểu sai cơ bản. Trên thực tế, một
báo cáo kết quả kinh doanh đo lường một thứ khác hẳn so với lượng tiền ra vào, và
còn lại. Nó đo lường doanh thu hoặc tổng thu nhập, chi phí hoặc chi tiêu, và lợi
nhuận hoặc lãi.
Bất kỳ báo cáo kết quả kinh doanh nào cũng bắt đầu bằng doanh thu. Khi
doanh nghiệp bàn giao một sản phẩm hay một dịch vụ cho khách hàng, kế toán viên
sẽ nói doanh nghiệp đã tạo ra doanh thu. Chẳng cần bận tâm đến việc khách hàng
đã thanh toán hay chưa, doanh nghiệp có thể tính ngay khoản doanh thu này vào
dòng trên cùng của báo cáo kết quả kinh doanh trong giai đoạn đang xét đến. Có
thể chưa hề có khoản tiền nào được trao tay. Tất nhiên, đối với những doanh nghiệp
ghi nhận kế toán dựa trên tiền mặt như các đại lý bán lẻ và các nhà hàng, doanh thu
và tiền mặt là gần như nhau. Nhưng hầu hết các doanh nghiệp đều phải chờ ít nhất
30 ngày, hoặc hơn mới có thể thu về doanh thu, và nhà sản xuất của những mặt
hàng lớn, như máy bay, thậm chí có thể phải chờ trong nhiều tháng. (Quản lý một
công ty như Boeing sẽ đòi hỏi lượng dự trữ tiền mặt lớn để trang trải chi phí lao
động và các chi phí hoạt động cho đến khi công ty được thanh toán. Nhưng sang
phần sau, chúng ta sẽ làm quen với khái niệm được gọi là vốn lưu động (working
capital), một thông số giúp bạn đánh giá những vấn đề kể trên).
Thế còn dòng “chi phí” trên báo cáo kết quả kinh doanh thì sao? Vâng, các
khoản chi phí hay chi tiêu mà doanh nghiệp báo cáo không nhất thiết phải là những