nếu bạn trả 2 đô la cho “tiền bảo hiểm” vào giá mua quyền ưu đãi, thì
khoản tiền bạn phải trả là 9,40 đô la sẽ lên đến gần 11.375 đô la như chúng
ta đã nói từ trước. Con số hao phí 2 đô la cho việc đề phòng rủi ro dưới 140
đô la thực ra rất giống con số chi phí cho quyền chọn bán (nhưng tôi đã nói
là chúng ta chỉ nói về quyền chọn mua, nên chúng ta sẽ không bàn đến
quyền chọn bán).
Kết luận chung cho thấy, việc mua quyền chọn mua giống như việc bạn
mượn tiền để mua cổ phiếu, nhưng có bảo đảm. Giá của quyền chọn mua
bao gồm chi phí vay mượn của bạn và chi phí “bảo hiểm”. Do đó, bạn
không thể có mọi thứ miễn phí. Song, bạn có thể vay vốn đặt cược tương
lai vào một cổ phiếu cụ thể. Bạn cũng có thể giới hạn số tiền có thể mất để
đặt cược trên giá của quyền chọn mua.
Vì vậy, trở lại vấn đề chính (về việc “tự huy động thêm vốn của bạn”), sở
hữu một quyền chọn mua không quá khác biệt với việc sở hữu một cổ
phiếu gốc. Với cổ phiếu gốc, bạn đặt cược vào tương lai của công ty, và có
thể, bạn chỉ mất số tiền đầu tư vào cổ phiếu gốc. Trong ví dụ ban đầu, giá
cổ phiếu của công ty sau khi huy động thêm vốn là 36 đô la, đã phân chia
30 đô la cho các cổ đông, kết quả là số cổ phiếu giá gốc đi vay cấp vốn đã
được thổi phồng, tạo nên những thay đổi to lớn cho giá trị của công ty mẹ.
Trong ví dụ đó, chủ sở hữu đã có một khoản lợi nhuận khiêm tốn 20% từ
khoản thu được 80% giá cổ phiếu gốc. Mặt khác, nếu công ty tuyên bố phá
sản, chủ sở hữu của cổ phiếu gốc chỉ có nguy cơ mất khoản tiền đầu tư vào
cổ phiếu giá gốc, không phải là khoản nợ 30 đô la được công ty tạo ra để
hoàn thành quá trình huy động thêm vốn.
Bất chấp sự tương đồng về tính chất của những cổ phiếu gốc và quyền lựa
chọn được mua, hai loại cổ phiếu khác nhau ở một điểm quan trọng: Các
quyền lựa chọn có thời hạn nhất định, chúng chỉ có giá trị cho đến ngày
chốt hạn. Còn cổ phiếu giá gốc là những cổ phiếu thường cho nên theo cách
nào đó, chúng là những quyền chọn mua không có ngày chốt hạn (mặc dù