hướng bán trái phiếu họ nhận được trong công ty mới đi. Điều này thường
có nguyên nhân từ việc đầu tư đầu tiên vào trái phiếu của công ty đích được
phát hành vì lợi ích cụ thể của công ty, chứ không phải cho những người
nắm giữ trái phiếu. Sau khi áp lực bán giảm đi, cổ phiếu mới đôi khi có thể
tăng khá kịch tính. Điều này thường diễn ra khi một số lượng cổ phiếu mới
lớn được phát hành trong công ty sáp nhập, để cung cấp đủ số lượng trái
phiếu ban đầu chưa phát hành ra.
Đã quá đủ lý thuyết rồi. Bây giờ, hãy tham khảo một ví dụ trong thế giới
thực để xem những sự kiện liên doanh thần kỳ có thể quăng một guồng
máy vào hoạt động nhờ những phép tính tinh vi nhất như thế nào.
NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG
Lựa chọn mua cổ phiếu của Tập đoàn Marriott
Tình huống công ty con Marriott tách ra (đã nhắc đến ở Chương 3) cho
chúng ta một ví dụ tốt về hiện tượng này. Như chúng ta đã thấy, tập đoàn
Marriott Corporation đã chia làm hai công ty riêng rẽ: Marriott “tốt”
(Marriott International) và Marriott “xấu” (Host Marriot). Người ta mong
đợi Marriot International sẽ giành được những hợp đồng quản lý khách sạn
có giá trị và mong Host Marriot giữ được tất cả các bất động sản bị ế, đang
chồng chất với hàng tỷ đô la tiền nợ. Sự chia tách này được lên kế hoạch từ
ngày 30 tháng 9 năm 1993, trước lúc bắt tay vào thực hiện gần 11 tháng.
Tháng 8 năm 1993, giá cổ phiếu của tập đoàn Marriott là 27,75 đô la. Tôi
có thể mua quyền chọn mua có hạn đến tháng 10 năm 1993 với giá thực là
25 đô la/một cổ phiếu với tổng số tiền là 3,125 đô la. Vì ngày thứ Sáu, thứ
Ba của tháng 10 là ngày 15 tháng 10 (và công ty con có thể bắt đầu đi vào
hoạt động từ ngày 30 tháng 10), nên cổ phiếu của cả Marriot International
và Host Marriott sẽ được bán độc lập ít nhất là hai tuần trước khi quyền
chọn mua của tôi hết hạn. Thông thường, nếu một công ty con xuất hiện
trước khi quyền lựa chọn hết hạn, người chủ sở hữu có toàn quyền nhận cổ