ít hơn. Đó là vì những người mua cổ phiếu niêm yết tự do chỉ mua những
cổ phiếu mà họ muốn, do đó việc giá cổ phiếu giảm do mua bán thiên vị sẽ
không thể xảy ra.
Cơ hội thứ hai của bạn lại đến từ một hướng khác. Đây chính là lúc tận
dụng những kỹ năng toán lớp 1 của chúng ta. Một khi cổ phiếu của công ty
con được mua bán công khai thì nghĩa là thị trường đã định được giá trị của
nó rồi. Nếu chi nhánh Widget của XYZ có tổng cộng 10 triệu cổ phiếu và
bán ra thị trường 2 triệu cổ phiếu với giá 20 đô la một cổ phiếu - nghĩa là
XYZ vẫn sở hữu 80% cổ phiếu, trị giá 160 triệu đô la (8 triệu cổ phiếu nhân
với 20 đô la một cổ phiếu - vậy đấy, toán lớp 2).
Cơ hội thứ hai của bạn là: bằng con tính đơn giản nói trên, bạn biết được
hai điều. Thứ nhất, dĩ nhiên bạn biết giá trị của Widget mà XYZ đang nắm
giữ - 160 triệu đô la. Thế nhưng ngoài ra bạn còn biết giá thị trường của
toàn bộ phần còn lại của XYZ (trừ đi 160 triệu đô la). Nghĩa là thế này:
Nếu XYZ có giá thị trường là 500 triệu đô la và 80% cổ phiếu của Widget
có giá trị 160 triệu đô la, điều đó cho phép đưa ra kết luận: toàn bộ phần
còn lại của XYZ có giá trị 340 đô la.
Câu chuyện tầm phào đó sẽ đưa bạn đến đâu? Để rồi xem.
NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG
Sears
Tháng 9 năm 1992, Sears công bố bán 20% cổ phiếu hai trong số các chi
nhánh của họ ra thị trường. Đã nhiều năm nay, ban quản trị của Sears phải
gánh chịu áp lực về vấn đề giá cổ phiếu của công ty. Sears cho rằng giá trị
cổ phiếu của tập đoàn không phản ánh đúng giá trị hai chi nhánh của mình
là Dean Witter (bao gồm cả Discover) và Công ty bảo hiểm Allstate. Riêng
với Dean Witter, Sears cũng loan báo luôn ý định phân phối trực tiếp 80%