nhận. “Anh ta bảo mình đang tìm hiểu vụ việc, cảm ơn thông tin của em, và
em đừng có chõ mũi vào việc của người khác nữa. Trích nguyên văn.”
Bronwyn có vẻ nhẹ nhõm, không một chút tự ái. “Cảm ơn chị. Quả là tin
tốt. Vậy, chúng ta nói đến đâu rồi?”
“Simon và Jake,” Maeve nói, một tay chống cằm, mắt dõi theo hai tập hồ
sơ. “Họ có liên quan. Nhưng kiểu gì?”
“Cho tôi nói chút,” Kris ôn tồn nói, và tất cả nhìn cậu như thể đã quên mất
cậu có mặt. Mà có lẽ thế thật. Cậu im lặng suốt từ đầu.
Maeve cố bù đắp cho thái độ đó bằng cách mỉm cười khích lệ với cậu.
“Vâng?”
“Tôi tự hỏi,” Kris nói. Tiếng Anh của cậu không pha khẩu âm và gần như
hoàn hảo, với một chút trang trọng gợi ý cậu không phải người bản xứ. “Rất
nhiều sự chú ý được dồn vào việc ai ở trong phòng. Đó là lý do cảnh sát ban
đầu nhắm vào bốn người. Vì khả năng để người nào khác không ở trong
phòng mà giết được Simon là gần như không có. Đúng chứ?”
“Đúng,” tôi nói.
“Vậy.” Kris gỡ hai tấm giấy nhớ từ trên một tập hồ sơ xuống. “Nếu kẻ sát
nhân không phải Cooper, hay Bronwyn, hay Addy, hay Nate - và không ai
nghĩ ông thầy ở đó có liên quan gì - thì chúng ta còn lại ai?” Cậu dán hai
tấm giấy nhớ đè lên nhau lên bức vách cạnh buồng của chúng tôi, rồi ngồi
xuống và nhìn chúng tôi với vẻ chăm chú lịch thiệp.
Simon bị hạ độc trong giờ phạt
Simon bị trầm cảm
Chúng tôi chìm vào im lặng hồi lâu, cho tới khi Bronwyn thở hắt ra một
hơi. “Tôi là người kể chuyện toàn tri,” cậu ta nói.
“Gì?” Addy hỏi.
“Đó là điều Simon nói trước khi chết. Tôi nói trong mấy bộ phim teen làm
gì có vai đó, và nó bảo ngoài đời thực thì có. Rồi nó một hơi uống cạn cốc