đứa con nhỏ, bà nhớ lại những dáng điệu thơ ngây đáng yêu của nó, bà
tưởng như nghe thấy tiếng nói êm dịu, những lời nói nực cười của nó.
Ngày đưa ma đã đến. Kiệt sức vì đã thức nhiều đêm vì đau buồn, bà mẹ
ngủ thiếp đi vào lúc gần sáng, bên cạnh chiếc áo quan của con bà. Người
nhà vội vã nâng nhẹ cỗ quan tài, mang sang gian buồng xa nhất để bà khỏi
nghe thấy tiếng búa đóng đinh vào nắp hòm.
Khi chợt tỉnh giấc bà đòi nhìn mặt con bà lần cuối cùng. Chồng bà bảo:
- Quan tài đã đóng nắp rồi. Tất nhiên là phải làm thế.
- Ôi! Thượng Đế đã cay nghiệt với tôi thì làm sao mà con người có thể tốt
với tôi được? - Bà vừa nói vừa nức nở.
Cỗ quan tài được đem ra nghĩa địa: bà mẹ ở lại nhà với hai cô con gái.
Mắt bà nhìn con mà như chẳng trông thấy gì. Bà chìm đắm trong buồn
phiền, chẳng làm được việc gì cả, sống như một cái máy. Tâm trí bà không
ngừng bay bổng hết chỗ này sang chỗ khác như một con thuyền phó mặc
cho gió đẩy đi khắp bốn phương.
Ngày đưa ma đã qua như thế, tiếp đó vẫn là một chuỗi ngày sầu não và
buồn tẻ. Chồng con bà đau lòng, nước mắt chảy quanh, nhìn bà mẹ tội
nghiệp và tìm lời an ủi bà, nhưng bà cũng chẳng nguôi, vả lại chồng con bà
biết nói gì với bà? Chính họ cũng đau khổ như bà? Chính họ cũng đang đau
khổ như bà.
Chỉ có giấc ngủ là có thể đem lại cho bà một lát nghỉ ngơi, nhưng bà
không ngủ được. Cuối cùng cả nhà xúm lại khuyên can, giục bà đi ngủ. Bà
nằm xuống chẳng nói một lời. Một đêm chồng bà lắng nghe hơi thở của bà,
tưởng bà đã ngủ, thầm cảm ơn Thượng Đế đã rủ lòng làm dịu cơn đau khổ
và ông cũng quên được ưu phiền trong một giấc ngủ vài giờ.
Ông không nghe thấy tiếng vợ ông thức giấc, và vội vã mặc quần áo: bà
lẻn ra khỏi nhà và đi về nơi ngày đêm lôi cuốn tâm trí bà, nơi chôn con bà.
Bà đi qua vườn, tới cánh đồng có con đường mòn dẫn tới nghĩa địa.
Đường vắng ngắt. Vả lại có ai gặp bà cũng không biết nữa, vì mắt bà chỉ
chăm chú nhìn vào một mục tiêu: hàng cây ở nghĩa địa phía trước.