Truyền kỳ mạn lục
NGUYỄN DỮ
34. Lê Cảnh Kỳ: trước làm quan với nhà Trần, sau làm quan cho nhà Hồ đến chức Hành khiển.
35. Lưu Thúc Kiệm: đậu đầu khoa Thái học sinh cuối đời Trần.
36. Lấy ý trong câu nói của Vi Trung, ẩn sĩ đời Tấn. Trương Hoa mời Trung ra làm quan, ông nói:
Ta còn đương lo con sóng rớt ở cái vực sâu kia tràn đến, há lại còn xắn áo mà lội nữa ư?
37. Thiên Dân chinh trong Kinh Thư có câu: Hỏa viêm Côn sơn, ngọc thạch câu phần, nghĩa là: Lửa
đốt núi Côn, ngọc đá đều cháy, (Núi Côn Sơn có tiếng sản sinh ra ngọc quý. ý nói theo nhà Hồ rồi
cũng bị khốn đốn cùng nhà Hồ.
38. Cửa bể Kỳ La ở làng Kỳ La, huyện Kỳ Anh nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh, Năm 1407 Hồ Quý Ly bị bắt
ở đấy. Núi cao Vọng ở làng Bình Lễ, cùng huyện, là nơi Hồ Hán Thương bị bắt, cũng vào năm 1407.
39. Nguyên, Bạch: tức Nguyên Chẩn, tự Vi Chi và Bạch Cư Dị, tự Lạc Thiên là hai nhà thơ nổi tiếng
đời Đường.
40. Lưu là quan Thái sử nhà Chu, họ Lưu, người chế ra lối chữ đại triện. Tư là Lý Tư nhà Tần, chế
ra lối chữ tiểu triện.
41. Lấy ý một câu trong Hệ từ thượng truyện của Kinh Dịch: Thần dĩ tri lại, trí dĩ tàng vãng, ý nói
thánh nhân là người sáng suốt có thể hiểu biết và dành giữ mọi việc trước sau ở đời.
42. Bói cỏ bói rùa: bói cỏ thi và mai rùa để đoán việc lành dữ. Đây là cách bói của Trung Quốc thời
xưa.
43. Xử sĩ: kẻ sĩ không ra làm quan, ẩn dật, trái với xuất sĩ là đi thi làm quan.