Một đôi câu của Tấn đủ gợi lên trong tôi cả một thời thơ ấu. Tôi cảm
thấy rạo rực, muốn cầm viết, viết ngay. Viết về Tấn nhưng chan chứa tâm
hồn của tôi.
- Viết mầy là thằng Tấn trọc được không?
- Được, mầy muốn viết gì thì viết.
Gọi nó là Tấn trọc, vì ở trường có đến ba thằng Tấn. Tấn đen, Tấn sún,
nó là Tấn trọc. Chẳng hiểu sao, từ lớp một đến lớp hai, cái đầu của nó lúc
nào cũng trọc lóc, đầy u với nhọt. Bù lại cái đầu u nần lam nham thuốc
xanh thuốc đỏ, nó có cặp mắt sáng, tròng trắng rất trắng, tròng đen rất đen
với nụ cười hiền lành. Đến năm lớp ba, nhờ một người Tàu bán tương chỉ
cho một bài thuốc gia truyền: cháo lươn với đậu xanh, vừa mát vừa xổ chất
độc. Chỉ có vậy mà cái đầu nó lành lặn lúc nào chẳng ai hay biết. Sau, dù
có một mái tóc rậm đen, nó vẫn mang danh là Tấn trọc.
Bây giờ, ngồi trước mặt tôi là một người đàn ông hơn ba mươi, dạn
dày chinh chiến, rắn chắc trong bộ quân phục mà cách ăn mặc trông không
được nghiêm chỉnh cho lắm, hơi xốc xếch, xuyềnh xoàng.
Chiến công nổi bật của nó là trận đánh vừa chận đứng vừa đánh tan
một cánh quân Mỹ đợt hai năm Mậu Thân (1968) trong một làng vùng
ngoại ô Sài Gòn. Đơn vị nó nằm trong một vị trí bất lợi. Một bên là quốc
lộ, một bên là con sông. Trên quốc lộ là xe tăng, là thiết giáp; dưới sông là
tàu chiến, trên trời là trực thăng. Xa hơn là dàn pháo của căn cứ "Bình
Chánh, dàn pháo được mệnh danh là "dàn nhạc Tân Tây Lan". Đơn vị nó
hơn một trăm tay súng nằm trong cụm vườn thưa, lấy mương nước, gốc cây
làm công sự.
Giữa lúc hiểm nghèo ấy, Tấn đeo B41 leo lên ngọn dừa, lần đầu tiên
trong chiến tranh, Tấn là người chiến sĩ dùng B41 từ trên ngọn dừa bắn hạ
trực thăng. Chiếc trực thăng hình con cá lẹp, như con diều hâu sắt vừa quay