Lạ gì bỉ sắc, tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Kiểu thơm
« Phong-tình cổ-lục »
Rằng : năm Gia-tĩnh triều Minh,
10. Bốn phương phẳng-lặng, hai Kinh
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ, nối dòng nho-gia.
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh-thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang-trọng khác vời,
20. Khuôn trăng đầy-đặn, nét ngài nở-nang.
Hoa cười, ngọc thốt
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc-sảo mặn-mà,
So bề tài sắc, lại là phần hơn.
Làn thu-thủy, nét xuân-sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông-minh vốn sẵn tính trời,
30. Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm,
Cung, thương, làu bậc ngũ-âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ-cầm
Khúc nhà tay lựa nên chương,