biệt hóa mặc nhiên của linh hồn. Sinh thể hữu cơ là một cái CÁ BIỆT nhờ
vào sự tương tác qua lại giữa cơ thể và linh hồn của nó: các cơ quan tách
biệt ấy sẽ phát triển, nhưng được linh hồn đem trở lại vào trong sự thống
nhất, sự phụ thuộc và sự phụ thuộc lẫn nhau. Chúng vừa là mục đích vừa là
phương tiện của nhau. Vì sinh thể hữu cơ là HỮU HẠN, cơ thể và linh hồn
là có thể tách rời nhau, và sự tách biệt này tạo ra cái chết. Dù vậy, cơ thể và
linh hồn không phải là hai thành tố cấu thành của sinh thể hữu cơ. (Nghĩa
là, việc đánh mất linh hồn hay sự sống thì giống với việc đánh mất hình
dáng của ta hơn là đánh mất cái ô: dù có mất đi thì cái ô vẫn còn đó, còn
hình dáng và linh hồn thì không thể).
Sự sống gồm ba tiến trình (tức là ba “SUY LUẬN” trong Lô-gíc học):
1. Về mặt bên ngoài, sinh thể hữu cơ (trong Lô-gíc học, sinh thể hữu
cơ xuất hiện ra như là một CHỦ THỂ hay khái niệm) có ba chức năng:
(a) Cảm năng: không phải là năng lực cảm giác hay tri giác các đối
tượng bên ngoài, mà là năng lực cảm giác hay cảm nhận toàn bộ cơ thể của
ta.
(b) Tính dễ bị kích thích: là sự phản ứng lại các kích thích, và nơi loài
vật là phản ứng cơ bắp.
(c) Sinh sản: không phải sinh sản ra những sinh thể hữu cơ khác cùng
loài, mà là sự tự-duy-trì một sinh thể hữu cơ duy nhất bằng sự tái sinh các
cơ quan của nó về mặt sinh lý học.
Do đó ba chức năng này liên quan với nhau: trong (a) sinh thể hữu cơ
là một với chính mình; (b) sinh thể hữu cơ phá vỡ hay “phân tách”
(dirimiert) chính mình; và (c) nó khôi phục sự thống nhất của mình.
2. Sinh thể hữu cơ có tự nhiên vô cơ bên ngoài nó. (Trong Lô-gíc học,
đây là PHÁN ĐOÁN, tức là sự phân chia của khái niệm). Vì môi trường vô
cơ này là môi trường bản chất bên trong bản thân sự sống, nó xuất hiện