vào năm 1830. Nhưng ông dành phần lớn thì giờ cho các trách nhiệm hành
chính ngày càng tăng lên, và trên hết, là giảng dạy về Lô-gíc học, Pháp
quyền tự nhiên, Triết học về Tự nhiên, Triết học về Tinh thần, nghệ thuật,
tôn giáo, lịch sử và lịch sử Triết học. (Ông cũng thích chơi đánh bài, du lịch
và xem kịch và opera).
Hegel vốn không phải là người giảng bài hấp dẫn: giọng Schwaben
nặng nề, chậm chạp, bị ngắt quãng bởi thường xuyên hắng giọng và ho,
trong khi không rời mắt khỏi bản thảo bài giảng. Cách giảng dạy của ông
(cũng giống như học thuyết của ông) không có mấy tính chất “Socrates”.
Ông không hoan nghênh các câu hỏi hay bình luận từ cử tọa. Cử tọa - cũng
như bản thân ông - được yêu cầu “đắm mình” vào “bản thân Sự việc”. Chỉ
sau khi đã học hành lâu dài và vất vả, người học mới có đủ tư cách đặt
những câu hỏi nhạy cảm và nêu các bình luận thích hợp. Tuy nhiên, trí tuệ
thâm sâu, kiến thức quảng bác, lòng say mê hiển nhiên đối với Triết học
cũng như những ứng biến luôn đầy cảm hứng đã đảm bảo cho ông có được
một cử tọa rộng rãi, thường đến từ nhiều vùng khác của nước Đức
.
Hegel công bố nhiều luận văn trong những năm ở Berlin. Không kể bài
luận văn dài đả kích English Reform Bill năm 1831
, chủ yếu xuất hiện
trong Jahrbücher für wissenschaftliche Kritik (Niên giám Phê phán Khoa
học) do Hegel cùng với các bạn hữu như Gans, Marheinecke, Forster, v.v.
chủ trương từ 1827. Niên giám cũng là nơi tồn trữ nhiều bài luận văn về W.
von Humboldt, Solger và Hamann
.
Hegel qua đời vào cuối năm 1831 do nạn dịch tả đang tràn qua khắp
nước Đức, và ông được an táng ở Berlin, bên cạnh Fichte. Ông mất vào lúc
đang ở đỉnh cao của danh vọng, được thừa nhận rộng rãi như là triết gia lớn
nhất ở nước Đức. Ít ngày sau khi ông qua đời, gia đình ông đã giúp hình
thành một Verein von Freunden des Verewigten (“Hội những người bạn của
kẻ quá cố”), gồm các môn đệ và những người theo ông, nhằm ấn hành các
công trình, bao gồm cả các bài giảng được họ xem là cần phải bổ sung vào