4.7 Các câu lệnh lưu trữ và nén tập tin
91
[user]$ tar xvf tên_kho tên_tập_tin
Chương trình tar là phương tiện thuận lợi để tạo các bản sao lưu trữ (sao
lưu) của tập tin. Tất nhiên còn có những tiện ích sao lưu chuyên dùng khác,
nhưng cả khi bạn đọc không biết những tiện ích này, thì vẫn có thể sao lưu dữ
liệu quý báu của mình lên đĩa mềm bằng:
[user]$ tar Mcvf /dev/fd0 thư_mục
rồi phục hồi thư mục bằng lệnh:
[user]$ tar Mxpvf /dev/fd0
Hoặc đơn giản hơn, tạo một tập tin kho chứa:
[user]$ tar cvf tên_kho
thư_mục
rồi sao chép tập tin tên_kho lên một thiết bị lưu tháo rời hoặc thư mục trên
mạng nào đó (CD, DVD, flash, ftp,. . . ). Phục hồi lại bằng lệnh:
[user]$ tar xpvf tên_kho
Nếu có khó khăn khi sử dụng lệnh tar, hãy đọc trợ giúp man của nó hoặc đọc
những thông tin hiện ra khi chạy tar với tùy chọn --help
4.7.2
Chương trình gzip
Mặc dù chương trình tar tạo ra kho tập tin, nhưng như đã nói ở trên, nó không
nén kho này lại mà chỉ kết hợp các tập tin riêng rẽ vào một tập tin chung. Để
nén tập tin này lại thường sử dụng câu lệnh gzip. Trường hợp đơn giản nhất
của lệnh này trông như sau:
[user]$ gzip tên_tập_tin
Trên dòng lệnh có thể đưa ra cùng lúc vài tên hoặc “mẫu tên” tập tin. Nhưng
khi này mỗi tập tin sẽ được nén riêng rẽ, chứ không tạo một tập tin chung.
Để
giải nén tập tin hãy dùng một trong hai câu lệnh sau:
[user]$ gzip -d tên_tập_tin
hoặc
[user]$ gunzip tên_tập_tin
Tập tin ban đầu sau khi nén sẽ bị xóa, chỉ còn lại tập tin đã nén. Còn khi
giải nén thì tập tin nén sẽ bị xóa, chỉ còn lại tập tin bình thường. Chúng ta có
cảm giác như tập tin được “đưa ra, đưa vào” một kho. Nhưng đó là những tập tin
hoàn toàn khác nhau! Hãy sử dụng lệnh ls -i để kiểm tra chỉ số inode của
chúng.
Bây giờ chúng ta sẽ liệt kê một vài tùy chọn có ích của chương trình gzip vào
bảng
Bởi vì chương trình gzip không có khả năng lưu nhiều tập tin vào trong một
tập tin, nên thường dùng gzip để nén những kho tập tin do tar tạo ra. Hơn nữa
còn có thể sử dụng “kết hợp” hai chương trình này. Chúng ta sẽ xem xét vấn đề
này ngay sau.