20
Cài đặt HĐH Linux trên cùng máy tính với Windows
chia ổ đĩa nào trong số đã có (fdisk và tương tự) có thể tạo thêm một phân vùng
mở rộng thứ hai.
Ổ đĩa trên Linux nói riêng (ổ đĩa vật lý) được truy cập qua tên của thiết
bị: /dev/hda, /dev/hdb, /dev/sda, v.v. . . Các phân vùng chính có thêm số 1-
4 trong tên thiết bị: /dev/hda1, /dev/hda2, /dev/hda3, còn phân vùng lôgíc
thì có các tên: /dev/hda5, /dev/hda6, /dev/hda7 . . . (bắt đầu từ số 5). Từ
những gì đề cập đến ở trên có thể suy ra tại sao lại có thể bỏ qua các tên như
/dev/hda3
hay /dev/hda4 (đơn giản là phân vùng chính thứ ba và thứ tư
không được tạo ra) và ngay sau /dev/hda2 bạn đọc thấy /dev/hda5 (phân vùng
lôgíc trong phân vùng mở rộng /dev/hda2), và sau đó thì việc đánh số lại theo
thứ tự thông thường.
Trong Windows các phân vùng lôgíc nhận được tên (chữ cái), bắt đầu từ chữ
cái cuối dùng dành cho phân vùng chính. Ví dụ nếu một đĩa cứng có hai phân
vùng chính (C: và D:) và một phân vùng mở rộng, trong phân vùng mở rộng tạo
ra hai phân vùng lôgíc, thì những phân vùng lôgíc này sẽ được đặt tên E: và F:.
Xin nói thêm, trong Windows NT và 2000/XP có thể thay đổi tên của các phân
vùng đĩa.
2.3.3
Quá trình khởi động các HĐH của công ty Microsoft
Dù hệ điều hành có là gì, thì để có thể bắt đầu điều khiển máy tính, cần nạp
HĐH vào bộ nhớ. Vì thế hãy xem xét qua quá trình khởi động của các HĐH khác
nhau. Chúng ta chỉ quan tâm đến việc khởi động từ ổ đĩa cứng, nên sẽ không
xem xét đến việc khởi động từ đĩa mềm, CD-ROM và qua mạng. Hãy bắt đầu từ
MS-DOS và MS Windows cũ (xin đừng quên rằng, việc phát triển và hoàn thiện
máy tính cá nhân song song với sự phát triển của HĐH của Microsoft và những
quyết định sử dụng trong các HĐH này có ảnh hưởng mạnh đến quyết định của
các nhà phát triển thiết bị).
Như bạn đọc biết, khi bật máy tính đầu tiên sẽ chạy chương trình POST
(Power On Self Test). Chương trình xác định dung lượng bộ nhớ, thử nghiệm bộ
nhớ, và xác định các thành phần khác (bàn phím, ổ cứng. . . ), khởi động các thẻ
adaptor. Trên màn hình thường xuất hiện các thông báo về dung lượng bộ nhớ,
về việc thử nghiệm bộ nhớ, danh sách các thiết bị nhận ra (ổ đĩa cứng và mềm,
bộ xử lý, cổng COM và v.v. . . ).
Sau khi hoàn thành việc thử nghiệm POST gọi Int 19h. Công việc của Int
19h là tìm thiết bị khởi động. Việc tìm kiếm thực hiện theo thứ tự xác định trong
Setup BIOS và theo cách thăm dò sector số 0 của các thiết bị tương ứng. Nếu
đĩa có thể khởi động, thì trong sector số 0 của đĩa có
bản ghi khởi động chính –
Master Boot Record (MBR). Hai byte cuối cùng của MBR –
“số màu nhiệm”, là
dấu hiệu cho biết sector có MBR, và theo đó đĩa có thể khởi động. Ngoài “số màu
nhiệm” MBR còn chứa bảng phân vùng đĩa đã nói ở trên, và một chương trình
nhỏ – trình
khởi động chính, kích thước chỉ có 446 (0x1BE) byte.
Bảng
cho thấy cấu trúc của sector khởi động chính sau khi cài đặt Win-
dows.
MS-DOS, Windows95 và NT ghi nhớ DOS MBR trong khi cài đặt. Ngoài ra cũng
có thể tạo MBR của MS với câu lệnh DOS sau: fdisk /mbr.
Xin trở lại với quá trình khởi động. Int 19h của BIOS nạp trình khởi động