Tiền lương hưu được xác định bởi số năm làm việc và mức trung bình
các khoản lương đã được hưởng. Muốn được hưởng lương hưu trọn vẹn, thì
năm 1969, phải có quá trình làm việc hai mươi bốn năm; từ 1970, thời gian
làm việc phải là hai mươi lăm năm; còn những người được xác nhận có ít
nhất 10 năm làm việc thì hưởng lương hưu trí bộ phận. Cách tính tiền
lương toàn phần hay bộ phận dựa trên hai yếu tố cấu thành: lương hưu gốc
và lương hưu bổ sung; lương hưu gốc gồm 50% bình quân các khoản lương
đã được hưởng, còn phần bổ sung thì tính theo số năm làm việc từ ngày 1
tháng giêng 1929, mỗi một năm tương đương 1% lương gốc.
Có thể mình họa chế độ trợ cấp và lương hưu ở Hungari trong thập kỷ
vừa qua bằng bảng kê số người được hưởng và gánh nặng ngân sách dưới
đây:
Chuyên
ngành
Số người hưởng trợ cấp và
lương hưu (tính theo số nghìn)
Gánh nặng ngân sách (tính
theo số triệu phôrinh)
1959
632
3.722
1960
636
4.427
1961
796
5.08
1962
912
5.737
1963
983
6.421
1964
1.046
6.992
1965
1.101
7.712
1966
1.156
8.711
1967
1.213
9.514
1968
1.269
10.339
1969
1.319
-
Tuy chế độ trợ cấp và hưu trí của Hungari thuộc những chế độ tiên
tiến nhất trên thế giới, nhưng vẫn có những vấn đề cần được giải quyết.
Chẳng hạn có những sự khác biệt quan trọng giữa lương hưu được quy định