trong động đặt một quan tài cũng bằng đá.
Thúc Mưu cùng Lệnh Hồ Đạt vội cúi lạy, rồi sai người nâng nắp quan tài
lên, thì thấy một người nằm ngửa, vẻ mặt vẫn còn đầy đặn, hồng hào,
chẳng khác gì người sống, khắp người da thịt trong suốt như ngọc, mái tóc
đen nhánh. Từ mặt tới bụng, tới chân, đều lần lượt lộ rõ ra theo tay của bọn
tả hữu. Những chiếc móng tay, chiếc nào cũng dài trên dưới một thước, Ma
Thúc Mưu thấy thế, biết là di thể của một thiên thần đắc đạo, nên không
dám đụng đến, bèn lệnh cho tay chân, đậy nắp quan tài lại. Rồi sai mở hòm
đá ra, ở bên trong không có một thứ gì khác ngoài ba thanh đá mỏng, trên
đều khắc chữ khoa đẩu (1). Chẳng ai biết đọc thứ chữ này. May ở trong núi
có một vị chân tu, tuổi đã hơn trăm có thể đọc được, dịch ra như sau:
1 chữ khoa đẩu: Khoa đẩu, là con nòng nọc. Chữ khoa đẩu là một thứ chữ
cổ của Trung Quốc, hình giống con nòng nọc còn được giữ lại trên mặt đá.
Ta là Đại Kim tiên
Thác đã một nghìn niên
Số đủ một nghìn niên
Sau lưng nước chảy liền
Gặp được Ma Thúc Mưu
Cải táng lên cao nguyên
Tóc xõa tới cát đen
Lạt chờ một nghìn niên
Sẽ lên miền Phật tiên.
Thúc Mưu thấy tên mình cũng được viết trên đó, kinh ngạc không thôi,
càng tin đạo pháp của tiên nhân, biết được những chuyện phi thường, bàn
với Lệnh Hồ Đạt, tìm một thế đất cao ráo, làm lễ di táng. Chùa Đại Phật
ngày nay, chính là di tích này vậy.
Đến vùng Trần Lưu, dân phu đang đào bỗng thấy mây đen kéo đến, rồi
mưa như trút, gió gào thét. Nước chảy cuồn cuộn, cuốn theo rất nhiều dân