nếu tôi biết đó là một giấc mộng, thì tôi đã không bao giờ muốn tỉnh
giấc. Trong giấc mộng, đêm đêm tôi đều tìm tới chàng
nhưng tất cả những cuộc gặp gỡ đó, than ôi, còn ngắn
hơn một giây khi tôi đã tỉnh thức.”
Những câu thơ đó là của Tiểu Dã Tiểu Đinh (Ono no Komachi) đệ nhất
nữ thi sĩ của “Cổ Kim Tập” một người làm thơ về mộng với một thái độ
hiện thực rất trực tiếp. Nhưng khi ta tìm tới những vần thơ sau đây của
hoàng hậu Vĩnh Phước Môn Viện (Eifuku - đồng thời với Thiền sư Nhất
Hưu thuộc thời đại Thất Đinh tức Muromachi ; hình như sau khi “Tân cổ
Kim Tập” ra đời), chúng ta thấy một thứ hiện thực rất tinh vi, tinh vi đến
trở thành một thứ tượng trưng sầu thương rất Nhật Bản :
“ Nắng mai chiều trên lũy tre có bầy chim sẻ hót - mầu nắng như mầu
mùa thu,
Gió thu lay động lá cành, thấm đến tận xương. Trên tường thành mặt
trời chiều đang lặn”
Thiền Sư Đạo nguyên, mà bài thơ về tuyết lạnh tôi đã trích trên và Thiền
Sư Minh Huệ người đã viết về mặt Trăng như bạn đồng hành đều đại khái
thuộc về khuynh hướng của thời đại “ Tân cổ Kim Tập”. Minh Huệ Thiền
Sư và Tây Hành Thiền Sư thường trao đổi thi ca và trò chuyện về thơ với
nhau.
Sau đây là một đoạn về đời của Minh Huệ Thiền Sư do đệ tử của người
là Hỉ Hải viết:
“Thiền Sư Tây Hành thường đến thăm và nói chuyện về thơ. Thái độ của
người với thi ca, người nói, không giống người thường. Vạn tượng trong vũ
trụ đều hư vọng. Hoa đào, chim cu, trăng, tuyết: đối diện với mọi hình sắc
của thiên nhiên, mắt và tai của người chỉ tràn ngập chân không. Chữ người
dùng không phải là chữ thật. Khi người nói về hoa đào, thì trong óc người
không có hoa đào thật ; khi người nói về mặt trăng, người không nghĩ tới