chủ nghĩa cổ điển
. Từ đó , ông đã hăng hái sáng tác nhiều thơ , kịch và
tiểu thuyết .
Năm 1841 , ông được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp . Vài năm sau , ông
đau buồn vì mất đứa con gái đầu lòng vì tai nạn . Ông lao vào hoạt động
chính trị , tha thiết với lý tưởng cộng hoà và xã hội . Được bầu là nghị sĩ
Quốc hội , ông lên tiếng bảo vệ người nghèo và chống lại âm mưu lật đổ
chế độ cộng hoà của Louis Bonapard , cháu của Napoleon III . Hugo tổ
chức kháng chiến một thời gian , sau đó chốn sang Bỉ , rồi phải sống lưu
vong hơn mười lăm năm
trên những hòn đảo Giecxây và Giecnơxay của
nước Anh . Ông viết nhiều kiệt tác lưu hành khắp Châu Âu .
Năm 1870 khi Đế Chế II sụp đổ , Hugo trở về nước và được dân chúng
đón tiếp nồng nhiệt . Năm 1871 , Công xã Pari
nổ ra và tồn tại được 72
ngày . Hugo dũng cảm bênh bực những người công xã bị đàn áp , tù đày .
Ông tiếp tục viết cho đến cuối đời . Ông mất năm 1885 , được nhà nước làm
lễ quốc tang và đưa thi hài vào điện Pangteon , nơi dành cho các danh nhân
của nước Pháp .
.
Tác phẩm đồ sộ :
Hugo sáng tác hơn mười lăm ngàn câu thơ , nhiều vở kịch và tiểu
thuyết dài .
Thơ có các tập thơ trữ tình : Những bài thơ phương Đông (1829) , Lá
mùa thu (1831) , Những tiếng nói bên trong (1837) , Mặc tưởng (1856) ; thơ
trào phúng : Trừng phạt (1853) ; thơ hùng ca : Truyền kì các thời đại (1859
, 1876 , 1883) ...
Kịch có : Hecnani (1820) , Ruy Bơla (1838) ...
Tiểu thuyết có : Nhà thờ Đức bà Pari (1831) , Những người khốn khổ
(1862) , Những người lao động của biển cả (1866) ...
Hugo là một nhà thơ lớn . Ông thể hiện chủ nghĩa trữ tình của trường
phái lãng mạn , đạt tới đỉnh cao với các tập thơ Lá mùa thu , Mặc tưởng .
Mục đích của mhà thơ là "trở nên dội tiếng âm vang" của tất cả những khát
vọng và những xúc cảm của con người thời đại mình . Theo ông , cuộc đời