chúng tôi được nhờ cậy nhiều. Nhưng nhờ cậy cái gì? Ông ta cứ tiêu tầm
bậy tầm bạ hết sạch. Ví dụ, mới mua hôm nay, ngày mai đã lại bán đi, hay
là phá cho hỏng. Chẳng hiểu ra làm sao cả. Đến khi chết thì lại chẳng có cái
gì nữa, hết sạch. Nếu không thì hôm nay đâu đến nỗi lạnh tanh đi như thế
này!
Ông ta chỉ chơi bời phá phách, chẳng lo gì đến chuyện đứng đắn cả.
Tôi đã nghĩ đến điều đó và khuyên nhủ ông ta. Tuổi tác như thế phải có vợ
có con. Cứ như địa vị ông ta hỏi ai chẳng được! Giá chưa gặp nơi môn
đăng hộ đối, thì hẵng cưới vài ba cô hầu đã, cũng được. Đã làm người thì
phải cho ra người chứ! Nhưng ông ta cứ nghe tôi nói là lại cười và nói:
"Già này? Sao già lại cứ lo những chuyện như thế cho người khác?". Ông
xem, ít lâu nay, ông ta trở thành phù phiếm như thế, chẳng thực tế chút nào
cả. Người ta nói điều phải lại không chịu nghe. Giá mà nghe tôi thì đâu đến
nỗi bây giờ nằm xuống, một thân một mình trơ trọi như vậy. Ít ra thì cũng
được nghe tiếng khóc của vài người thân.
Một người ở hiệu may đưa quần áo về. Ba người bà con liền lấy bộ đồ
lót, rồi đi vào sau màn. Một lát, màn vén lên, thì đồ lót đã thay rồi. Bây giờ
đến lượt mặc áo ngoài. Tôi thật không ngờ tới. Người ta mặc cho anh cái
quần màu vàng đất, có nẹp đỏ rộng, rồi mặc chiếc áo nhà binh vào có cầu
vai kim tuyến chói sáng. Không rõ anh phẩm tước gì, và phẩm tước ấy ai
cho. Khi nhập quan, thấy anh nằm không được thoải mái lắm, cạnh chân để
một đôi giày da màu vàng, cạnh người để một cái gươm bằng giấy, và cạnh
cái mặt đen xạm khô dét, để một mũ lưỡi trai viền kim tuyến.
Ba người bà con anh vịn vào thành quan tài khóc một hồi, rồi ngừng
khóc, lau nước mắt. Đứa bé đội mũ gai lùi ra, thằng Lương ba cũng chạy
trốn mất, có lẽ bọn chúng nó cũng thuộc vào một trong bốn tuổi tí, ngọ,
mão, dậu, chăng.
Mấy người phu khiêng nắp quan tài vào. Tôi lại gần, nhìn vào mặt anh
lần cuối cùng trước khi vĩnh biệt. Trong bộ quần áo cứng nhắc đó, anh nằm