“Ồ, nhìn thấy một con gùi hả, cô chủ?” Nó đáp, há miệng ra, “Ồ, cô chủ
à, tui đã nhìn thấy một con gùi gồi.”
“Nhưng anh có,” và bé Maria đã mất hết cả hơi – chỉ với ba từ đầu tiên
đó, “Nhưng Job à, anh có bao giờ nhìn thấy một con ruồi nhỏ xíu xiu hơn
hết thảy: con ruồi của anh chưa?
Job gãi đầu và trông có vẻ rất nghiêm nghị trong một lúc khiến bé Maria
e rằng nó sắp sửa khóc òa lên. “Ờ, cô chủ,” cuối cùng nó đột ngột hét lên
với một tràng cười hô hố, “có gồi, cô chủ à, tui còn có thể bắt một con ong
cho nó phóng thẳng vào cổ họng như một lưỡi dao. Ờ, ong là một loài gùi,
đúng thế.”
Bé Maria bật cười. Cả hai đồng thanh cười lớn; rồi bé nhận ra đôi mắt
mình đang rưng rưng nước mắt và đột nhiên bé trở nên im lặng và buồn bã.
“Bây giờ,” bé nói, “tốt hơn anh nên tiếp tục với mấy cái chậu hoa.”
Bé quay đi, trái tim nhỏ bé của bé như tràn ngập một giai điệu cổ xưa,
buồn như những âm thanh của thủy triều trên những bờ cát không người
thăm viếng của đại dương. Cách đó không xa có một cái nhà hóng mát luôn
luôn có mùi hơi nước ngay cả sau nhiều tuần thời tiết oi nồng – dù lúc đó
nó có mùi hơi nước bị khô.
Bé Maria đi vào bóng râm của nhà hóng mát và đứng đó một mình trong
giây lát. Bé không biết vì sao bé lại đi vào đó. Nó rất yên tĩnh. Nhưng là
một sự yên tĩnh ẩm mốc, ngột ngạt và u ám – hoàn toàn khác với sự yên
tĩnh rực rỡ sắc màu ánh sáng của phòng khách. Có tiếng vo ve inh tai ở bầu
không khí bên ngoài. Hàng ngàn giọng kêu nhỏ xíu hòa vào nhau như tiếng
réo rắt của những sợi dây đàn vi-ôn khổng lồ. Một con chim nhảy lên trên
mái nhà; bé Maria có thể nghe thấy tiếng những chiếc vuốt của nó trên lớp
gỗ. Sự va chạm đó làm rơi ra một đám bụi nhỏ. Nó rơi xuống lớp bụi mịn
dưới chân bé. Các góc của nhà hóng mát bám đầy mạng nhện.
Bé Maria thở ra một hơi dài khác, rồi nhìn quanh như thể hy vọng rằng
có một ai đó mà với họ bé có thể kể ra câu chuyện bí mật của mình – về
con ruồi; về Maria-Ruồi. Bé ngừng lại – nhìn chăm chú. Và rồi, như thể