mười hộp, trong đó có hai hộp cùng màu, vì có năm cái kệ cả thảy. Nó bỏ
những hộp thuốc vào giỏ. Trong những hộp khác nó cho vào một số loại
thuốc mà nó thích, và nó không thể không lấy thêm một chai nước đường
Nicey-Nicey, như cách ông bác sĩ gọi. Với cái thứ nicey-nicey này, nó trộn
vào các loại thuốc để làm cho chúng ngọt hơn. Nó cũng bỏ vào giỏ một hai
con dao nhỏ sáng loáng, vài cây kéo dài, một cái ống nghe mỏng manh
bằng gỗ, và một đôi kính gọng mai rùa màu sẫm. Thế là xong.
Khi nó gói ghém xong cái giỏ, ánh bình minh nhợt nhạt đã xuyên qua
những khe hở của các cánh cửa sập. Đôi má của nó gần như cũng nhợt nhạt
như thế, dù nó không biết. Nó len lén đi xuống thang. Cái giỏ ở một bên
hông và một cái gói ở hông kia – bao gồm số tiền, hai cái áo ngủ và hai cái
khăn tay cũ. Nó ngồi xuống ăn sáng. Trời vẫn còn rất sớm khi nó ăn xong
cả phần điểm tâm của ông bác sĩ và của nó. Nó rời khỏi nhà, len lén đi qua
những hàng cây dương đang vi vu trong gió, rồi chạy vụt đi. Đó là một việc
làm tồi tệ, nhưng có lẽ nếu thằng nhóc người hầu của ông nha sĩ nói cho nó
biết là có vấn đề gì với nước da đen thì có lẽ nó không bao giờ phải bỏ đi
như thế.
Nhưng nó đã lên đường, và trọn ngày hôm ấy, cho tới xế chiều, nó nằm
nấp trong một cái máng cỏ chuồng ngựa của một ngôi nhà bỏ hoang mà nó
đã chú ý tới trên những chuyến giao thuốc. Khu vườn của ngôi nhà mọc um
tùm những cỏ và đầy những lũ chim rối rít. Nó ngủ được một chút, nhưng
trong hầu hết thời gian đó nó ngồi với đôi tay lạnh ngắt và cái miệng hé mở
để lắng nghe một cách sợ hãi tiếng những con chó săn đang đánh hơi, tiếng
gọi của quỷ Satan, nhưng hơn tất cả là tiếng gọi của Núi Tuyết mà nó chưa
từng đặt chân tới. Có một lần duy nhất nó mạo hiểm rời khỏi nơi ẩn nấp để
xem có còn trái táo nào còn sót lại trên lớp cỏ hay không. Nó chẳng tìm
thấy trái nào và phải lên đường bụng đói.
Trong ánh hoàng hôn chạng vạng, với cái giỏ và chiếc áo choàng lông
chồn trên tay, nó len lén lên đường tới nhà ga và hỏi mua một tấm vé tới
nhà ga gần Núi Tuyết nhất.