nhà thơ nhà văn địa phương.
Ngày hôm sau, Mẫu Đơn nhận được một mẩu giấy do Tiểu Nhã mang tới,
nói quan Hàn Lâm hy vọng gặp nàng vào buổi chiều để nói một vài chuyện.
Chàng sẽ đi viếng mộ mẹ tại đồi Phượng Sơn ở phía nam thành phố trên bờ
sông Tiền Đường; nơi ấy chỉ cách nhà Mẫu Đơn nửa giờ đi bộ. Chàng sẽ
ghé lại thăm nàng, và hai người sẽ đi uống trà tại hội quán Thi Xã, ở đó
quang cảnh của Tây Hồ rất đẹp. Mẫu Đơn nói với em gái:
- Em cũng đi theo, nghe không.
Hải Đường vội trả lời, "Không. Em không đi được. Đại ca không nhắc đến
tên em. Chị đi thôi và hỏi bao giờ đại ca cho đi Bắc Kinh, và phải mang
theo quần áo nào. Còn bây giờ chị mặc gì?" - Thì cứ quần đen như thường
lệ.
- Trời đất!
- Anh ấy không để ý đâu. Dẫu sao chị cũng không mặc đồ lụa được.
- Em muốn nói là chị nên mặc cái gì đàng hoàng hơn, chứ không nên cẩu
thả như vậy. Đại ca không bị xúc phạm hay sao?... Em muốn nói chuyện để
tang ấy.
- Không. Chị biết rõ anh ấy.
Nếu Mẫu Đơn có ý định ăn mặc cẩu thả, thì nàng đã hoàn toàn thành công.
Hôm đó là một ngày đẹp trời, khô ráo, mát mẻ nhưng không lạnh. Nàng
mặc một chiếc áo chẽn cũ màu xanh nhạt và quần đen, rất tầm thường. Hải
Đường khâm phục lòng tự tin đặc biệt của chị khi ra đi gặp quan Hàn Lâm
như thế. Nàng có một sự táo bạo mà Hải Đường không dám; nàng dường
như có thể lấy được mọi thứ trên đường đi của nàng.
Xe ngựa của hai người chạy tới hội quán Thi Xã trên Bạch Đê, hai bên
đường phất phơ những rặng liễu vàng vào một ngày thu trong sáng. Bên
phải là nhà hàng Lầu Ngoại Lầu; bên trái là tư thất của Ngọc Chữ Nguyên,
một nhà thơ và tiểu thuyết gia. Hội quán Thi Xã xây trên một sườn dốc lấp
lánh những cây táo, lê và anh đào. Một bậc đá dẫn lên tới tận đỉnh, vì thế
đứng trên sân hội quán, người ta có thể nhìn xuống nhà hàng Lầu Ngoại
Lầu. Có nhiều phòng trong hội quán trưng bày những phẩm vật nghệ thuật.
Những bức bút thiếp đương thời treo đầy tường.