nào”, viên cảnh sát tức khắc lầm bầm. “Đại thể là,- ông kết luận – bà yêu
cầu tôi đi tìm một kiến trúc sư bị một vết thương cách đây hai năm, được
con gái bà chữa trị, và chúng ta cần phải nghi ngờ, vì trong cuộc gặp gỡ
ngẫu nhiên với bà, anh ta đã tỏ ra phản đối euthanasie ?”
- Ông không thấy đó là một hướng đáng chú ý à ?- bà hỏi.
- Không, không thật đáng chú ý lắm,- và ông dập máy.
- Thế nào, có chuyện gì vậy ?- Nathalia hỏi.
- Dù sao thì kiểu tóc lửng của cô trông cũng được lắm.
- Đồng ý, vậy là mừng hụt.
Ông lại lao vào đống hồ sơ của mình, nhưng không một hồ sơ nào có điều
gì nghi vấn. Bực mình, ông vớ lấy ống điện thoại, kẹp giữa tai và cằm, rồi
bấm số máy tổng đài của bệnh viện. Cô trực tổng đài trả lời sau hồi chuông
thứ chín.
- Này, tốt nhất là không nên chết với cô !
- Không, để chết thì ông cứ gọi thẳng đến nhà xác – cô trực tổng đài đối lại
chan chát.
Ông tự giới thiệu, và hỏi cô gái xem liệu hệ thống máy tính ở chỗ cô có cho
phép tìm kiếm về những ca được nhận vào khao cấp cứu theo nghề nghiệp
và loại thương tích không. “Chuyện đó phụ thuộc vào khoảng thời gian mà
ông tìm kiếm”, cô trả lời. Rồi cô nói thêm là dù sao thì luật bí mật y tế cũng
ngăn cô tiết lộ thông tin, nhất là qua điện thoại. Ông dập phắt máy điện
thoại, lấy áo khoác và đi ra cửa. Chạy nhanh xuống cầu thang, ông đi ra chỗ
đậu xe, và hối hả bước về phía xe ôtô của mình. Ông phóng xe qua thành
phố, miệng không ngớt chửi rủa, đèn xoay sáng lên trên mái và còi ôtô rú
lên ầm ĩ. Chưa đầy mười phút sau ông đã đến bệnh viện Memorial và đứng
trước quầy đón tiếp.
- Các vị yêu cầu tôi tìm một cô gái bị hôn mê mà người ta nẫng đi của các
vị đêm chủ nhật này; hoặc là ở đây các vị giúp đỡ tôi, và đừng làm tôi bực
mình với cái bí mật thầy lang nhảm nhí của các vị, hoặc là tôi đi làm việc
khác.
- Tôi có thể làm gì được cho ông ?- bà Jarkowski vừa xuất hiện ở cửa bèn
hỏi.