bắt, bị khởi tố, bị xét xử. Cậu bạn học làm luật sư vẫn đồng ý giúp đỡ, anh
ta bảo rất có thể tòa sẽ xử nhẹ thôi, cho hưởng án treo.
Hồ Bằng cảm thấy tai hại vô cùng. Đến cơ quan đi làm hình như lúc nào
cũng có người nhìn theo, chỉ trỏ, bàn chuyện của anh. Anh đến hỏi Dư Tĩnh
ở phòng đánh máy, trong cơ quan có ai nói gì anh không. Dư Tĩnh bảo anh
thời gian này nên tỏ ra bình thường, đi làm bình thường, đừng để mọi
người nghi ngờ, đặt điều này nọ. Anh hỏi có ai nghi ngờ gì anh không, cô
nói: “Mọi người bảo người nhà của anh chơi mạt chược thua, tham ô tiền
của nhà máy, bảo anh tính toán giỏi nhưng không tính được chuyện của
vợ”.
Đúng là giấy không gói được lửa. Ở phòng làm việc Hồ Bằng tỏ ra buồn.
Ông Mâu thì vẫn nói chuyện mạt chược với anh.
Ông Mâu hỏi, mạt chược và tú-lơ-khơ khác nhau ở những điểm nào? Hồ
Bằng uể oải trả lời không biết. Ông không thể không nói tiếp đề tài vừa
nêu:
“Mạt chược không phân to nhỏ, tú-lơ-khơ thì có. Thân phận mỗi con bài
mạt chược giống nhau, không phụ thuộc to nhỏ, không có át chủ, không
phân biệt tốt xấu, một vạn và chín vạn không liên quan đến lớn bé, người ra
bài không theo tuần tự trước sau, bất cứ quân bài nào cũng có thể hô phong
hoán vũ, đội trời đạp đất, cũng có thể là thứ tồi tệ nhất, vấn đề ở chỗ quân
bài ấy xuất hiện trong trường hợp nào. Cục diện của mạt chược thể hiện ở
chỗ giá trị độc đáo của nó, giá trị bản thân ngắn ngủi, biến hóa, chỉ trong
giây lát giá trị bản thân của nó không còn nhỏ bé, chỉ chớp mắt lại trở về
trạng thái bình thường, trở thành con bài có thể đánh. Tú-lơ-khơ không như
vậy. Quân “át” luôn luôn là chúa tể, sự tồn tại của nó quyết định sự bất bình
đẳng, có ý nghĩa áp chế và phục tùng, có quân “át” trong tay là nắm chắc
phần thắng…”
Hồ Bằng nói: “Tôi biết, tôi biết. Trong văn phòng của chúng ta bác là
quân át chủ bài, bọn cháu là ba cơ đỏ hoặc bốn cơ đen, dù sao thì cũng nhỏ
hơn bác, bác là quan to có thể đè chết người”.