Từ Việt (
戉) hiện có các cách kiến giải sau:
. “Việt” (
戉 = rìu) là “hoa” (铧 = lưỡi cày). Giới khảo cổ Trung Hoa lấy các
mảnh đá mài ba góc ở di chỉ văn hóa Lương Chử làm dấu hiệu nhận diện văn
hóa Việt. Sách Việt Tuyệt Thư có ghi khi người Vu Việt tấn công Ngô Cung có
dùng lưỡi cày. Về sau, từ “việt”(
戉 ) chỉ “lưỡi cày” ( 铧 ) được dùng để gọi
người Việt.
. “Việt” (
戉) là bôn đá có tay cầm. Người Việt sớm sử dụng các loại bôn đá,
nhất là loại bôn có tay cầm, giống như người Hoa Hạ phương Bắc dùng rìu đá
vậy.
. “Việt” (
戉) là rìu (斧). Sách Thuyết Văn Giải Tự có viết ““việt”, là loại rìu”
(
戉. 斧也 Việt, phủ dã). La Hương Lâm [1943] cho rằng loại rìu “việt” (戉)
người Việt cổ sử dụng có hình “phủ việt” (
斧戉), là loại vũ khí hoặc nhạc khí.
. “Việt” (
戉) có mối tương quan với thạch bôn và thạch phủ (rìu đá) của
người Việt cổ. Rìu đồng được phát triển từ “việt” (
戉 ) bằng đá. Cả bôn đá
(hình 1.4-5) và rìu đá đều là hai sản vật đặc biệt của văn hóa Bách Việt cổ.
. “Việt” (
戉) là loại rìu đá mặt phẳng có khoét lỗ. Di chỉ văn hóa Mã Gia
Bang (
马家滨) hay văn hóa Lương Chử (良渚文化) đều có nhiều phát hiện
loại rìu này, dùng làm vũ khí hay lễ khí [Tưởng Bính Chiêu.. 1998: 13-16].
Người Bách Việt xưa được nhận diện thông qua hàng loạt các dấu hiệu quan
trọng trong dân tộc học, khảo cổ học như:
H.1.4. Bôn có nấc [Trần Ngọc Thêm 2004]