VĂN HÓA BÁCH VIỆT LĨNH NAM VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI VĂN HÓA VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG - Trang 38

H.1.2. Mô hình rìu lưỡi xéo có cán, chữ “Việt” nguyên thủy mô phỏng hình rìu lưỡi xéo khắc trên

trống đồng [Trần Ngọc Thêm 2001]

H.1.3. Hình người cầm rìu nhảy múa khắc trên trống đồng [Trần Ngọc Thêm 2001]

Bản thân từ “Việt

越” là tên gọi do người phương Bắc đặt ra. Đông đảo giới

học thuật thống nhất chung rằng từ “Việt” xuất phát từ hình ảnh cái rìu (

/yue/, rìu đá, rìu đồng – hình 1.2-3), một di vật văn hóa độc đáo của người Việt
cổ, nên người Hoa Hạ – Hán dùng từ này để chỉ người Việt, sau biến thể thành
Việt (

越/yue/). Hiện có nhiều ý nghĩa được lý giải từ “Việt” (戉), cụ thể gồm

lưỡi cày, bôn đá có tay cầm, cái rìu (loại rìu mặt phẳng có khoét lỗ) v.v.. Một
số dân tộc được cho là hậu duệ Bách Việt hiện vẫn còn dùng tộc danh
Yue (Việt). Ngoài người Việt (Kinh) ở Việt Nam, người Choang (Trung
Quốc) tự gọi mình là Bố Việt (

布越 = người Việt). Người Bố Y tự xưng là Bu

Yuei, trại âm từ Bu Yue(người Việt), đồng thời gọi sấm sét là “Yei” (biến âm
của từ “Việt”, xuất phát từ niềm tin “Lôi công dùng rìu tạo ra sấm sét” [Vương
Văn Quang 2007: 44]. Ngoài từ Việt (

越), từ thời kì người Hán vượt Ngũ Lĩnh

trở về sau xuất hiện thêm từ Việt bộ Mễ (

粤) để phân biệt người Việt vùng này

với bộ phận nam Dương Tử, đặc biệt dùng nhiều trong cuốn Hán Thư. Theo
chúng tôi hai chữ này tuy khác nhau về cách viết, song lại là hai từ đồng âm,
đồng nghĩa, song ở đây cũng cần khu biệt rằng, từ Việt (

越) thường được dùng

để chỉ (1) cộng đồng người Việt ở vùng Dương Tử – Lĩnh Bắc; và (2) sau này
để chỉ người Việt nói chung ở Lĩnh Nam.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.