H.1.2. Mô hình rìu lưỡi xéo có cán, chữ “Việt” nguyên thủy mô phỏng hình rìu lưỡi xéo khắc trên
trống đồng [Trần Ngọc Thêm 2001]
H.1.3. Hình người cầm rìu nhảy múa khắc trên trống đồng [Trần Ngọc Thêm 2001]
Bản thân từ “Việt
越” là tên gọi do người phương Bắc đặt ra. Đông đảo giới
học thuật thống nhất chung rằng từ “Việt” xuất phát từ hình ảnh cái rìu (
戉
/yue/, rìu đá, rìu đồng – hình 1.2-3), một di vật văn hóa độc đáo của người Việt
cổ, nên người Hoa Hạ – Hán dùng từ này để chỉ người Việt, sau biến thể thành
Việt (
越/yue/). Hiện có nhiều ý nghĩa được lý giải từ “Việt” (戉), cụ thể gồm
lưỡi cày, bôn đá có tay cầm, cái rìu (loại rìu mặt phẳng có khoét lỗ) v.v.. Một
số dân tộc được cho là hậu duệ Bách Việt hiện vẫn còn dùng tộc danh
là Yue (Việt). Ngoài người Việt (Kinh) ở Việt Nam, người Choang (Trung
Quốc) tự gọi mình là Bố Việt (
布越 = người Việt). Người Bố Y tự xưng là Bu
Yuei, trại âm từ Bu Yue(người Việt), đồng thời gọi sấm sét là “Yei” (biến âm
của từ “Việt”, xuất phát từ niềm tin “Lôi công dùng rìu tạo ra sấm sét” [Vương
Văn Quang 2007: 44]. Ngoài từ Việt (
越), từ thời kì người Hán vượt Ngũ Lĩnh
trở về sau xuất hiện thêm từ Việt bộ Mễ (
粤) để phân biệt người Việt vùng này
với bộ phận nam Dương Tử, đặc biệt dùng nhiều trong cuốn Hán Thư. Theo
chúng tôi hai chữ này tuy khác nhau về cách viết, song lại là hai từ đồng âm,
đồng nghĩa, song ở đây cũng cần khu biệt rằng, từ Việt (
越) thường được dùng
để chỉ (1) cộng đồng người Việt ở vùng Dương Tử – Lĩnh Bắc; và (2) sau này
để chỉ người Việt nói chung ở Lĩnh Nam.