Tỉnh lớn có Kinh-đô Phnom-penh, với tỉnh Battambang, và Kampot.
Sinh-hoạt kinh-tế căn-bản là nông-nghiệp với thổ-sản thóc gạo và gỗ
rừng. Ngư-nghiệp còn ấu trĩ.
Tôn-giáo chính-thức là Phật-giáo tiểu-thừa với 75.000 tu-sĩ, và hầu hết
nhân-dân đều là tín-đồ trừ 2% là tín-đồ Hồi-giáo.
Việt-Nam
Phái Bắc giáp-giới với Tàu, phía Tây giáp-giới với Lào, Cao-Miên,
phía Nam và Đông là biển Trung-Hoa và Vịnh Bắc-kỳ, lãnh-thổ Việt-Nam
gồm hai Châu-thổ của sông Mékong ở Nam-Việt và Châu-thổ của sông
Hồng-Hà ở Bắc-Việt, nối liền với nhau bằng một giải bờ biển dài lượn hình
chữ S từ Mống-cáy đến Hà-tiên.
Diện-tích tổng-cộng là 334.334 Km2.
Dân-số tổng-cộng 26.800.000 hầu là thuộc giống Việt ở bờ biển và
Châu-thổ, với một số bộ-tộc thiểu-số ở miền núi, như Thái, Khmer, Mọi,
Mèo, Mán, Bahuar…
Hiện nay hai kinh-đô là Saigon và Hanoi với một cố-đô là Huế.
Sinh-hoạt kinh-tế căn-bản là nông-nghiệp với sản-xuất thóc-gạo,
Caoutchouc, ngư-nghiệp cũng khá thịnh.
Nguyên-liệu kỹ-nghệ là than và muối. Ngôn-ngữ là tiếng Việt từ Bắc
chí Nam. Tôn-giáo truyền thống là Tam-giáo dung-hòa cả Phật-giáo đại-
thừa, Luân-lý Khổng-giáo với thờ phụng tổ-tiên, và Lão-giáo với Ma-thuật
Vật-linh. Từ thế-kỷ XVI có Thiên-Chúa giáo và gần đây ở miền Nam, một
khuynh-hướng điều-hòa tín-ngưỡng theo tinh-thần Tam-giáo xưa kia đã tái-
hiện lôi cuốn một số khá lớn tín-đồ vào đạo Cao-Đài.