qua đấy lại dừng lại trước quán uống cốc rượu; có thể nói là quán
rượu đó đã làm cho cái nỗi buồn tẻ này nhộn nhịp lên đôi chút. Đôi khi
dân làng cũng tới đây uống rượu. Nhưng cái đã hấp dẫn họ không phải
là rượu raki của gã chủ quán, lại càng không phải cái thứ rượu bã của
hắn. Họ quan tâm đến cái khác, họ đến đây đổi trứng lấy đạn. Tuy việc
đó bị cấm rất ngặt nhưng chúng tôi cũng cứ đổi. Đêm đến, khi đứng
gác, chúng tôi bắn lên trời một loạt rồi ngày hôm sau khai đã bắn gấp
đôi số đạn bắn thực sự. Với những viên đạn dành ra được, chúng tôi
đổi lấy trứng.
Nhưng những loạt súng đêm khuya ấy thực là điểm gở. Cứ như
là chính chúng tôi đã rước lấy tai họa. Cách đây ít lâu, quả thật du kích
đã đến quấy nhiễu chúng tôi. Nếu không có cái lô cốt thì có lẽ chúng tôi
đã bị tiêu diệt rồi.
Người đầu tiên trong số chúng tôi bị giết chết trên cầu là trong
khi anh ta đang gác đêm. Hình như du kích định phá cầu, nhưng người
lính gác đã báo động ngăn họ không thực hiện được việc đó. Sáng hôm
sau, người ta thấy người lính gác chết trước lan can cầu, tư thế nằm kỳ
lạ, mồm há hốc. Anh có xem phim «Cái chết của người đi xe đạp»
không? Còn tôi, khi xem phim suýt nữa tôi đã kêu lên trong rạp. Cái
xác đó, trên màn ảnh, giống hình ảnh đã khắc sâu trong tâm trí tôi quá
thể.
Được mười lăm ngày thì đến lượt người thứ hai. Trường hợp
anh này cũng y hệt anh trước. Chúng tôi nghĩ là chính dân làng đã bắn
vào chúng tôi nhưng chẳng có chứng cớ gì cả. Giờ thì chúng tôi không
đổi đạn nữa. Nhưng làm thế nào được, chậm quá mất rồi!
Đến người thứ ba của chúng tôi bị giết thì chúng tôi quyết định
không gác trên cầu nữa. Cùng với số viện binh đến bổ sung, chúng tôi
còn nhận được một đèn chiếu, chiếc đèn đã được đặt trong lô cốt, và
chiếc cầu này đã được chiếu sáng từ lúc một. Với hàng trăm tấm sắt
đen sì, bắt chéo nhau, chiếc cầu không khác gì một con rết khủng khiếp
trông thật ghê rợn và đáng sợ. Đôi khi giữa đêm hôm, nhìn chiếc cầu in