Tiệc xong, Vương vào phòng ngủ, đêm ấy không đau ốm gì mà chết.
Người trong châu xin lập đền thờ phụng, mỗi khi cầu nắng, đảo mưa, đều
có linh ứng, làm một vị Đại phúc thần cho một châu. Các nơi thôn lạc đều
có đền thờ, cũng đều linh ứng.
Mỗi khi thiên tử đem quân đi đánh kẻ bạn nghịch thì rước kiệu Vương đi
trước, đến chỗ chiến địa, nghe trên không có tiếng binh mã rầm rộ, đều
được đại thắng cả.
Giữa năm Nguyên Phong nhà Trần, vua Thái Tông nam chinh Chiêm
thành, thuyền vua đi mau như gió, quả nhiên được đại thắng. Lúc khải hoàn
về đến châu, vua ngự lên đền, sắc phong Oai Minh Dũng Liệt Đại Vương.
Năm Trùng Hưng năm đầu, lại cho thêm hai chữ Hiển Trung; năm thứ tư,
gia phong hai chữ Tá Thánh. Năm Hưng Long thứ hai mươi mốt, gia phong
hai chữ Phu Hựu.
Tiếm bình
Nước ta từ xưa lấy ải Mộc miên làm Nam giới, Nghệ An là đất cực biên
của nước vậy.
Trải đời các quan cai trị trong hạt, hết thảy đều lấy kỳ nam, trầm hương
làm túi mang; thiết mộc, bạch đàn làm rương hòm, ít ai lấy trách nhiệm vỏ
về, rào ngăn làm gánh nặng của mình.
Lý Bát Lang thân làm con vua, giữ lấy tiết việt, đương một phương điện,
khiến cho nhân dân và mọi rợ đều sợ phục, triều nội xưng khen. Đến lúc đi
có sự tình cảm thì niu xe than khóc. Đến lúc chết có cái triệu chứng vâng
mệnh lên trời. Lòng dân mến công đức của Vương, lập đền thờ phụng, thì
ra ân huệ cảm người biết là ngần nào! Đang lúc ấy sáu cánh quân nam
chinh, đường thuỷ, đường bộ đều tiến, Vương thung dung làm xong các
công việc, công tư đều tiện lợi, đó là một điểm rất khó khăn. Gần đây có
ông Uc Trai, ông Siêu Trung Công lưu trấn những mười tám năm, mà công
nghiệp vắng vẻ chẳng nghe gì. duy có ông Phạm Thượng thư vị nho thần
biết giảm thuế cho dân, nhưng thị trấn chưa được bao lâu đã vội mất, nhân