dân truy niệm công đức lập đền miếu, ở Cầu Dinh mà thờ phụng. Mới hay
gánh nặng can thành cho công hầu không chỉ chuyên nương tựa vào bậc võ
phu mạnh mẽ mà thôi vậy.
________________
Chú thích:
91 Bát Lang Hoàng Tử: không nên nhầm với Nhã Lang, con của Lý Phật
Tử, đền thờ ở làng Hạ Mỗ, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông.
92 Kiền Phù Hữu Đạo là niên hiệu thứ ba của Lý Thái Tôn, bắt đầu từ 1039
đến 1041.
93 Châu Nghệ An: tên Nghệ An có từ năm 1036. Theo Toàn Thư mà Hoàng
Xuân Hãn dẫn trong cuốn Lý Thường Kiệt (trang 385), tháng 4 năm Bính
Tý (1036), Lý Thái Tông đặt hành doanh ở Hoan Châu, ở Nghệ An. Nhưng
bấy giờ còn chỉ là một châu. Việt sử lược nói năm 1101, đổi Hoàn Châu ra
Nghệ An phủ. Nhưng trong các đời sau, chỉ thấy sử chép Nghệ An châu mà
thôi, ví dụ Toàn thư 1128, 1073, 1131, 1132 v.v…
94 Trại Bà Hòa ở sông Bà Hòa; sông Bà Hòa ở huyện Ngọc Sơn, tỉnh
Thanh Hóa. Bây giờ là sông xã Đồng Hòa (Cương
Mục, tiền biên, I,20)
95 Thái Tông nam chinh năm Giáp Thân (1044).
96 Long Thuỵ Thái Bình là niên hiệu thứ nhất của Lý Thánh Tông, bắt
đầu từ 1054. Vậy năm thứ hai là năm 1055.