một bức điện tín đầy giận dữ: “Gerstenzang, nếu anh còn nêu tên mụ đàn bà
ấy một lần nữa thì tôi sẽ từ chức, nhắc lại, từ chức có nghĩa là tôi nói từ
chức là từ chức”.
Ở đây tôi cần ghi nhận nhân cách và sự nghiệp của David Halberstam với
những tác phẩm như “The Making of a Quagmire” và “The Best and The
Brightest” cũng như Neil Sheehan với những tác phẩm như “The Pentagon
Papers” và “A Bright Shining Lie”. Đó là những ký giả đã trở thành học giả
và bước lên đài danh vọng huy hoàng nhờ tài năng nghề nghiệp và lương
tâm trong sáng của họ, và từ đó tự hỏi Margueritte Higgins là ai mà đã làm
cho một số chính khách, tướng lãnh Mỹ và một số trí thức Công giáo Việt
Nam phải mê muội đến nỗi phải dựa vào sách của bà ta mà tham khảo để
bênh vực nhà Ngô.
Margueritte Higgins là nhà báo, sinh năm 1920 chết năm 1966, đã có chồng
là tướng Wiliam Hall và hai con. Để trả lời thắc mắc của một độc giả đang
viết luận văn về một nữ ký giả chiến trường “đã là tình nhân của nhiều
tướng lãnh Lục quân Mỹ trong Đệ Nhị Thế Chiến, trong chiến tranh Cao Ly
và chiến tranh Việt Nam” (to have had numerous affairs with numerous US
Army generals during World War II, the Korean conflict and the war in
Vietnam), báo Parade (The Sunday Newspaper Magazine) ngày 28/12/1986
đã viết như sau:
Người ký giả được đề cập đến là bà Margueritte Higgins (1920-1966), một
nữ ký giả chiến trường cao lớn, nhiều đường cong, khêu gợi tình dục (tall,
curvaceous, sexy) của Tạp chí New York Herald Tribune, và đã được giải
thưởng Pulitzer về ký sự quốc tế năm 1951. “Maggie” Higgins là một người
đàn bà đẹp choáng váng, nhiều tham vọng và nổi tiếng là không thấy gì có
hại khi phải dùng đến vốn liếng của mình-kể cả tài nghệ trong phòng the-để
tiến thân nghề nghiệp ký giả (who reputedly saw no harm in using her
assets-among them a bedroom talent-to advance her spectacular career in
journalism). Bốn tác phẩm về Higgins, về các đồng nghiệp và về thời đại
của bà ta mà quý độc giả nên tìm đọc là hồi ký “News in a singular thing”,
cuốn “Witness to War” của Antoinette May, “The Paper: the Life and Death
of the New York Herald Tribune” của Richard Kluger, và truyện dài “Shriek